Con chim thời gian
I
Côộc
Côộc
Côộc
Con gõ kiến đại ngàn
Gõ nhịp thời gian
Từng bước
Từng bước chân
Dẫm lên lối mòn đồng đội
Ôi bàn chân bé tí
Chân nao
Gạo nặng vai
Hơi em ngắn dập dồn chiến dịch
Nhịp con tim
Nhịp lời chim
Thánh thót mồ hôi
Giữa ngàn núi xưa cúi đầu lặng lẽ
Bóng nhỏ gần bên mặt trời
Côộc
Côộc
Côộc
Những người Tà Ôi da màu than rẫy cũ
Truốt vào lòng tay sần sùi da gỗ bứa
Từng hạt vàng ẩm ướt mồ hôi
Từng hạt vàng in sắc máu bàn tay
Từng hạt vàng chiến thắng
Tiếng con chim
Đếm cho ta hạt thóc
Đếm lòng ta hạt ngọc
Và trái tim không biết rụng rơi
Ta chắt chiu nuôi cách mạng nên người
Côộc. Tiếng chim vang vọng
Thành phố sau màu mây
Ôi thương nhớ vẫn hôn lên cùng nắng hồng mỗi sáng
Một thành phố cuối con suối này
Uống nước đục ngầu mỗi chiều đầy bom đạn
Đây, thành phố ta là những sa bàn
Những mái đầu hoa râm đăm đăm nếp trán
Lần bày tay rẽ lối những binh đoàn
Đường phố thân yêu
Ta lại học tên em theo hướng những binh đoàn xuất trận
Ta vuốt ve ngàn mái ngói mênh mang
Tay ta đau với trường thành vỡ rạn
Và con cầu như tiếng nấc nằm ngang
Cho ta làm một trái mù u
Lăn theo chân các anh các chị
Những trận xuống đường, những đêm không ngủ
Cùng nhạc ngựa cha ông, cho ta đi nữa
Về giữa phá Tam Giang.
III
Cánh rừng này mấy trận B.52?
Cây cụt ngọn dựng bia vào trời xanh căm giận
Nương sắn xương gầy mục nấm lân tinh
Những con suối quay nguồn về huyện bom ngàn tấn
Chim vỗ cánh về đây
Khắc lên cây cháy bỉng
Bằng một nốt rê trầm
Ta bỗng nghe
Tiếng nhặt khoan nhịp sênh tiền mẹ hát
Tiếng âm ấm giọt tranh vừa nặng hạt
Tiếng phồng căng con gà đất đầu xuân
Tiếng chìm sâu buổi phóng cọc Bạch Đằng
Tiếng đục vào đất đêm
Tiếng khoan tường xuyên phố
Tiếng đất rang lật dưới chân cha vỡ
Tiếng bào thai mẹ đạp ngốt hầm sâu
Và tiếng em rơi rơi…
Như những mảnh lá đêm, mùa chia tay Hà Nội
Ôi Tổ quốc ta yêu Người vời vợi
Khi Người khổ đau không làm ta sợ hãi
Trong căm hờn ta biết đường ta lên
Như hôm nay trầm tĩnh tiếng chim
Gõ không mỏi vào cửa ngày gian khổ nhất
Vững tin.
Vững tin
Vững tin.
IV
Côộc… Côộc… Côộc…
Mũi tên bay thần tốc
Những trận đánh chuyển giông trời lập hạ
Những trận đánh làm lịch sử vặn mình trong nếp đá
Biển tung xao sóng cuộn đằng đông
Lũ phăng phăng thốc xuống đồng bằng
Xáp thành cột, nhận chìm loài giặc nước
Côộc. Côộc. Côộc…
Những trống đồng Ngọc Lũ
Những cồng trận Đam San
Tiếng hô vang anh Trỗi
Cùng ba mươi mốt triệu người nổi lên bão tố
Côộc. Côộc. Côộc…
Nhịp thời gian cấp tập nụ xòe
Đã bén lửa, hỡi mùa hè sáu chín!
*
Tiếng Gọi Thời Gian Trong “Con Chim Thời Gian”
Trong dòng chảy của lịch sử, có những âm thanh không bao giờ lặng mất. Đó là nhịp trống đồng vang vọng từ ngàn xưa, là tiếng bước chân hành quân dẫm lên đất mẹ, là tiếng con chim gõ kiến cất lên như một nhịp đập thời gian – không mệt mỏi, không ngơi nghỉ. Nguyễn Khoa Điềm, với bài thơ Con chim thời gian, đã khắc họa một hành trình kiên cường của dân tộc, nơi mỗi con người là một nốt nhạc trong bản hùng ca bất tận, nơi mỗi thanh âm đều mang theo sức mạnh của lòng yêu nước và ý chí chiến đấu.
Nhịp Gõ Của Núi Rừng – Nhịp Đập Của Những Tâm Hồn
Bài thơ mở đầu bằng tiếng gõ nhịp của con chim gõ kiến – một âm thanh vừa quen thuộc vừa mang ý nghĩa ẩn dụ sâu xa:
“Côộc
Côộc
Côộc
Con gõ kiến đại ngàn
Gõ nhịp thời gian…”
Nhịp gõ ấy là bước chân của những người lính, là hơi thở gấp gáp của người vận chuyển lương thực trên đôi vai nhỏ bé, là mồ hôi thấm vào từng hạt gạo nuôi sống cách mạng. Mỗi tiếng Côộc vang lên không chỉ là nhịp điệu của tự nhiên, mà còn là sự luân chuyển không ngừng của lịch sử, của những con người âm thầm hy sinh vì tương lai.
Hình ảnh những người Tà Ôi với “da màu than rẫy cũ” mang đến một vẻ đẹp kiên cường của những con người gắn bó với núi rừng, với đất đai. Họ chắt chiu từng hạt gạo, từng giọt mồ hôi, nâng niu từng tia hy vọng. Nguyễn Khoa Điềm đã khéo léo đưa hình ảnh “hạt vàng” – tượng trưng cho lúa gạo, cho sự sống, và cũng là biểu tượng cho chiến thắng được nuôi dưỡng từ chính gian khổ ấy.
Thành Phố Trong Ký Ức – Những Bàn Tay Chạm Lên Từng Viên Gạch Đổ Nát
Không chỉ dừng lại ở những cánh rừng, bài thơ mở ra một bối cảnh rộng lớn hơn – thành phố bị chiến tranh tàn phá, nơi từng mái nhà, từng viên gạch đều in dấu vết của bom đạn:
“Thành phố sau màu mây
Ôi thương nhớ vẫn hôn lên cùng nắng hồng mỗi sáng…”
Thành phố hiện lên như một thực thể sống, nơi có những “mái đầu hoa râm đăm đăm nếp trán” đang lo toan cho vận mệnh dân tộc, nơi những cây cầu bị đánh sập nhưng vẫn vững vàng trong ký ức và hy vọng. Ở đó, tác giả tự nhận mình là “một trái mù u” – nhỏ bé, lăn theo bước chân của những con người đang đấu tranh. Hình ảnh này vừa giản dị vừa sâu sắc, bởi trái mù u là loài cây chịu thương chịu khó, dù ở bất cứ đâu cũng vươn lên mạnh mẽ, giống như tinh thần kiên cường của những người chiến sĩ.
Những Thanh Âm Của Lịch Sử – Tiếng Gọi Của Quá Khứ Vọng Về
Đến phần III, bài thơ trở thành một bản hòa tấu của những thanh âm lịch sử, nơi tiếng chim gõ kiến hòa vào biết bao âm thanh khác:
“Tiếng nhặt khoan nhịp sênh tiền mẹ hát
Tiếng âm ấm giọt tranh vừa nặng hạt
Tiếng phồng căng con gà đất đầu xuân…”
Những âm thanh ấy là tiếng ru ngọt lành, là tiếng của những ký ức đẹp đẽ về một quê hương yên bình, nhưng cũng là tiếng của những trận chiến, những lần quân dân cùng nhau xây dựng phòng tuyến, là tiếng “khoan tường xuyên phố”, tiếng những người mẹ sinh con trong hầm trú ẩn.
Đau thương, mất mát không làm con người gục ngã, mà chính những âm thanh ấy lại tạo nên sức mạnh. Trong Con chim thời gian, Nguyễn Khoa Điềm không khắc họa chiến tranh bằng bom đạn, mà bằng chính những thanh âm – những tiếng vọng của quá khứ, của sự kiên trì, của ý chí không lùi bước.
Tiếng Chim Thời Gian – Niềm Tin Và Ý Chí Của Dân Tộc
Nếu ở phần mở đầu, tiếng gõ kiến là sự khởi đầu của một hành trình, thì đến phần cuối, nó trở thành biểu tượng của sự chuyển động lịch sử:
“Côộc… Côộc… Côộc…
Mũi tên bay thần tốc
Những trận đánh làm lịch sử vặn mình trong nếp đá…”
Tiếng Côộc giờ đây không chỉ là nhịp điệu thiên nhiên mà còn là nhịp của cuộc chiến, của những trận đánh rung chuyển đất trời. Nhịp gõ ấy hòa cùng tiếng trống đồng Ngọc Lũ, tiếng hô vang của những người con đất Việt. Cả dân tộc như một cơn bão lớn cuốn phăng kẻ thù, như một dòng lũ mạnh mẽ nhận chìm quân giặc.
Lời Kết
Con chim thời gian không chỉ là bài thơ về chiến tranh mà còn là bản anh hùng ca về lòng kiên trì, về niềm tin vào tương lai. Nguyễn Khoa Điềm đã khéo léo sử dụng hình ảnh con chim gõ kiến như một chứng nhân của lịch sử, một biểu tượng cho những con người không bao giờ biết mệt mỏi, không bao giờ chùn bước trước gian khó.
Tiếng chim ấy vang lên từ cánh rừng, từ những thành phố đổ nát, từ những con người nhỏ bé nhưng mang trong mình một sức mạnh phi thường. Nó không chỉ nhắc nhớ về quá khứ, mà còn là lời hiệu triệu cho tương lai – một tương lai mà mỗi con người Việt Nam đều vững tin, đều sẵn sàng tiến bước, dù phía trước là bao nhiêu thử thách.
Và như thế, tiếng Côộc… Côộc… Côộc… vẫn mãi vang vọng, không chỉ trong rừng già, mà còn trong tim của những thế hệ mai sau.
*
Nguyễn Khoa Điềm – Nhà thơ và Nhà chính trị Việt Nam
Nguyễn Khoa Điềm (sinh ngày 15/4/1943), tên thật là Nguyễn Hải Dương, là một nhà thơ, nhà chính trị nổi bật của Việt Nam. Ông từng giữ nhiều chức vụ quan trọng như Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng khóa IX, Trưởng ban Tư tưởng – Văn hóa Trung ương, Bộ trưởng Bộ Văn hóa – Thông tin và Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa X.
Sinh ra tại Thừa Thiên Huế, Nguyễn Khoa Điềm xuất thân trong một gia đình có truyền thống văn hóa, là con trai của nhà báo Hải Triều. Ông học tập tại miền Bắc và tốt nghiệp Đại học Sư phạm Hà Nội năm 1964. Sau đó, ông vào miền Nam tham gia phong trào học sinh, sinh viên, hoạt động trong Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, vừa chiến đấu vừa sáng tác thơ ca.
Nguyễn Khoa Điềm được biết đến với những tác phẩm mang đậm chất sử thi và tinh thần yêu nước. Tiêu biểu nhất là trường ca Mặt đường khát vọng (1974), tác phẩm thể hiện sâu sắc tinh thần dân tộc và tư tưởng về đất nước, con người Việt Nam. Ngoài ra, ông còn có nhiều tập thơ giá trị như Ngôi nhà có ngọn lửa ấm (1986), Cõi lặng (2007), và được trao tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật.
Sau khi nghỉ hưu, ông sống tại Huế, tiếp tục đóng góp cho văn học nước nhà bằng những tác phẩm giàu ý nghĩa. Nguyễn Khoa Điềm là một trong những gương mặt tiêu biểu của nền thơ ca kháng chiến và văn học Việt Nam hiện đại.
Viên Ngọc Quý.