Cảm nhận bài thơ: Con voi già – Huy Thông

Con voi già

Tặng Phan Bội Châu

Qua sơn lâm âm thầm và hùng vĩ,
Tắm ngày đêm trong bóng đêm huyền bí,
Cành thướt tha cùng lá chíu chít giao,
Từ ngàn thu thiếu ánh mặt trời đào;

Qua những suối đầy rêu và chậm chạp,
Từ từ chảy dưới hai hàng cây thấp,
Như con trăn-ngọc-thạch vẩy long lanh,
Cuộn mình và uốn khúc trên đá xanh;

Qua những rặng núi cao và ngạo nghễ,
Chiều chiều tắt ngọn đuốc hồng đang xế;
Những ngàn lau như sóng biển mông mênh,
Cùng heo may lên xuống và bập bềnh;

Qua những nơi mà loài người yếu ớt
Chưa hề dám, tự ngàn xưa, đặt gót,
Con Voi Già bình tĩnh lạnh lùng đi,
Mắt lừ đừ vơ vẩn nỗi sầu bi.

[…….]

Voi nhớ rằng đã quá hai mươi hạ,
Nó dẫn đàn vượt qua hàng núi đá.
Nay, như xưa, vẫn tựa con rồng lam
Cuốn chùm Sao Câu Rút ở trời Nam.

Ôi! oai linh thay quãng đời oanh liệt
Nó ngang dọc vẫy vùng trên non biếc!
Hống hách thay những buổi, sức mạnh đầy,
Nó làm chúa muôn cầm thú cỏ cây!

Nó lại nhớ, than ôi, ngày bi đát
Người bé nhỏ xấu xa và hèn nhát,
Kéo từng đàn tới những chốn nguy nga
Cướp giang sơn hùng vĩ của Voi Già.

Biết bao voi dưới trận mưa tên sắt,
Đành phó mặc đống xương tàn cho đất!
Biết bao voi bị sét của loài Người,
Ngang đầu vang lừng nổ, ngã chết tươi!

[…….]

Voi đầu đàn, trên mình tên chơm chởm,
Thua, sau một trận giao phong ghê gớm,
Đành ôm, trời đất hỡi, trái tim đau,
Mà vội vàng trốn bỏ cảnh rừng sâu!

Nó đi, đi mãi, nhưng chẳng biết
Đi đâu. Ăn uống nghỉ ngơi chẳng thiết,
Nó đi, đi cho cách biệt miền Nam,
Cách biệt loài Người tàn ác tham lam.

Đoạn, trèo lên trên cao nguyên Tây Tạng
Rồi dừng bước. Gió cuốn theo ngày tháng,
Sáng qua chiều lại, sáng lại chiều qua,
Nỗi gian truân xưa, Voi cố xoá nhoà.

[…….]

Nhưng nay Voi biết mình đà tới cõi:
Sức thiêng liêng những ngày xanh chói lói,
Như mặt trời tàn tạ buổi chiều đông,
Trong tim Voi kém rộn với kém nồng.

Voi quả quyết noi theo con đường cũ
Quay về thăm những nơi xưa đàn trú,
Nhìn lại quãng đời niên thiếu anh hào,
Rồi bỏ mình ở chốn núi non cao.

Voi đi… Bỗng dừng chân, nó đứng lại,
Vì, kìa! Nơi mà loài Voi thất bại
Giống Người! nòi Voi thua trận khi xưa!
Nơi mà nước non cao cả đổi vua!

Ấn Độ! Ấn Độ! Nước non lộng lẫy!
Đêm hè ngươi tưng bừng đẹp đẽ mấy!
Ấn Độ phì nhiêu! Ấn Độ xanh tươi!
Cảm lòng thay, những cảnh vật của ngươi!

Vụt nhớ lại trận giao phong kịch liệt,
Cất tiếng buồn, Voi kêu rên thảm thiết.
Rồi, đầu như choáng váng, dạ đê mê,
Voi như ngất ngây, phấn khởi, say mê.

[…….]

Bỗng Voi thu chút sức thừa đứng dậy,
Rồi ngẩng đầu lên sao hè lộng lẫy,
Trong khoảng đêm khuya lặng lẽ, mơ màng,
Voi buồn rầu, cất tiếng bỗng rít vang.

Tiếng kêu ầm cõi sơn lâm to lớn
Xiết bao, ôi, đắng cay và đau đớn!
Nhưng thương thay, sao bạc chẳng ai hoài,
Rừng chẳng thương thân phận kẻ lạc loài.

Mình mệt mỏi, bên sông, Voi im rít,
Nhưng tan tác vào bóng đêm mù mịt,
Biết bao tình thương nhớ, nỗi sầu bi,
Theo tiếng kêu đều thoang thoảng bay đi.

Hồn rừng thẳm, những vang cây chan chứa,
Nhắc lại tiếng tiếng Voi kêu nhiều lượt nữa
Rồi núi non và cảnh vật âm u
Lại đắm say trong giấc mộng muôn thu.

Tiếng giã từ núi cao cùng sông rộng,
Chào rừng xanh với vòm trời lồng lộng,
Gọi linh hồn hùng vĩ của loài Voi,
Voi tưởng một mình mình biết mà thôi.

Có hay đâu gió xuyên sơn lừng lẫy
Đã than lại lời than đau đớn ấy,
Đã khiến cho ở chốn mịt mùng xa,
Tấm lòng ta thổn thức, hỡi Voi Già!


Bài thơ được tác giả viết tặng Phan Bội Châu vào những ngày cuối cùng của nhà chí sĩ yêu nước khi có tin cụ mệt nặng khó qua khỏi, đăng trên báo Tân Thiếu niên số 3, ngày 16/2/1935.

*

“Con Voi Già” – Bi Tráng Một Kiếp Hùng Anh

Có những vần thơ không chỉ là ngôn ngữ, mà là cả một nỗi lòng, một tâm tư, một kiếp người gửi vào đó. Con Voi Già của Phạm Huy Thông là một bài thơ như thế. Dưới hình tượng con voi già cô đơn trở về chốn cũ, ta không chỉ thấy số phận một con vật, mà còn là hình ảnh một con người, một bậc anh hùng, một chí sĩ yêu nước mang trái tim rực lửa nhưng đành cam chịu trước thời thế đổi thay.

Hình Tượng Con Voi – Bản Hùng Ca Oanh Liệt

Ngay từ những câu thơ đầu, hình ảnh con voi hiện lên đầy kiêu hãnh:

“Qua sơn lâm âm thầm và hùng vĩ,
Tắm ngày đêm trong bóng đêm huyền bí.”

Con voi là biểu tượng của sức mạnh, của oai linh muôn thuở. Nó đã từng băng qua rừng già, vượt suối, trèo núi, chinh phục thiên nhiên rộng lớn. Một thời, nó là chúa tể của muôn loài, là kẻ làm chủ cả một vùng trời:

“Ôi! oai linh thay quãng đời oanh liệt
Nó ngang dọc vẫy vùng trên non biếc!”

Hào khí trong những vần thơ như tái hiện lại một quá khứ rực rỡ, nơi con voi – cũng như một bậc anh hùng – từng hiên ngang giữa đất trời, từng vẫy vùng trong trận mạc, từng khiến bao kẻ khiếp sợ.

Thế nhưng, ánh hào quang ấy không thể kéo dài mãi. Đời người cũng như đời voi, không tránh khỏi những thời khắc bi thương.

Bi Kịch Của Sức Mạnh Bị Khuất Phục

Giấc mộng oai hùng tan biến khi con voi đối diện với thất bại:

“Voi lại nhớ, than ôi, ngày bi đát
Người bé nhỏ xấu xa và hèn nhát,
Kéo từng đàn tới những chốn nguy nga
Cướp giang sơn hùng vĩ của Voi Già.”

Con voi, vốn là chúa tể của núi rừng, nay bỗng trở thành kẻ thất trận. Nó không thua vì yếu kém, mà thua trước mưu mô của loài người, trước những vũ khí tàn ác. Trong cuộc chiến không cân sức ấy, bao đồng loại của nó đã ngã xuống, bao chiến hữu của nó đã bị hạ gục bởi “trận mưa tên sắt”.

Voi đầu đàn – biểu tượng của một thủ lĩnh, một anh hùng – đã thất bại sau một trận chiến khốc liệt. Nó không còn nơi để đi, không còn ý chí để chiến đấu, chỉ biết lặng lẽ rời xa chốn cũ, lê bước đến miền Tây Tạng xa xôi để chôn vùi những ký ức đau thương.

Hình ảnh con voi rời đi cũng chính là hình ảnh của những bậc anh hùng, những kẻ sĩ yêu nước bị đẩy vào cảnh bất lực, không thể thay đổi thời cuộc, chỉ còn biết mang theo lòng trung trinh mà lặng lẽ rời xa. Đó là một nỗi đau không thể nói thành lời, một sự tiếc nuối không thể nào nguôi.

Hành Trình Quay Về Và Tiếng Gào Bi Thương

Dẫu xa rời quê hương, nhưng làm sao con voi có thể quên được chốn xưa? Khi tuổi già đến, khi sức lực tàn phai, nó lại quyết tâm trở về:

“Voi quả quyết noi theo con đường cũ
Quay về thăm những nơi xưa đàn trú.”

Thế nhưng, quê hương ngày nào giờ đã đổi thay. Voi không còn nhìn thấy đồng loại của mình, chỉ còn thấy dấu tích của một trận chiến đã lùi vào quá khứ. Nó bàng hoàng nhận ra nơi mình từng chiến đấu giờ đã mất chủ quyền, đã đổi vua. Một đất nước oai hùng giờ đã trở thành chốn hoang tàn dưới bàn tay kẻ khác.

Trong giây phút ấy, con voi không thể kìm nén được nỗi lòng, nó cất tiếng gào:

“Tiếng kêu ầm cõi sơn lâm to lớn
Xiết bao, ôi, đắng cay và đau đớn!”

Tiếng gào ấy không chỉ là tiếng của con voi, mà còn là tiếng của một tâm hồn lạc lõng, một người anh hùng cô đơn giữa thời cuộc đổi thay.

Lời Giã Biệt – Nỗi Đau Của Một Bậc Hào Kiệt

Sau tiếng gào bi thương ấy, con voi già lặng lẽ dừng bước bên bờ sông, nhìn về rừng sâu, chào vĩnh biệt cả một thời hoàng kim đã mất. Nó biết rằng mình đã đi đến cuối con đường, biết rằng đây là nơi nó sẽ nằm xuống.

Những câu thơ cuối như một lời tiễn biệt:

“Tiếng giã từ núi cao cùng sông rộng,
Chào rừng xanh với vòm trời lồng lộng.”

Và rồi, mọi thứ lại chìm vào im lặng. Tiếng gào ấy dẫu vang vọng khắp núi rừng, nhưng rồi cũng bị cuốn đi trong cõi mịt mù của thời gian.

Tượng Đài Của Phan Bội Châu Và Một Thế Hệ Cách Mạng

Con Voi Già không chỉ là câu chuyện của một con vật, mà chính là hình tượng ẩn dụ về Phan Bội Châu – một chí sĩ yêu nước từng lẫy lừng một thời, nhưng rồi phải chịu cảnh cô đơn, bất lực trước thời cuộc. Bài thơ ra đời khi cụ Phan đã già yếu, như một lời tri ân dành cho một người anh hùng suốt đời vì nước, nhưng cuối cùng lại phải chấp nhận sống trong sự quản thúc, không thể tiếp tục cống hiến cho sự nghiệp giải phóng dân tộc.

Cũng như con voi già, cụ Phan đã từng vẫy vùng trên chính trường, đã từng làm khuynh đảo cả một thời đại, đã từng là linh hồn của phong trào Đông Du. Nhưng rồi, khi bị thực dân Pháp bắt giam và quản thúc tại Huế, cụ chỉ còn có thể nhìn về quê hương mà đau đáu một nỗi niềm.

Tiếng gào của con voi già chính là tiếng lòng của Phan Bội Châu, là tiếng kêu của một thế hệ cách mạng lừng lẫy nhưng không thể tiếp tục con đường mình đã chọn.

Lời Kết

Con Voi Già là một bài thơ giàu hình tượng, sâu sắc và đầy bi tráng. Dưới lớp vỏ một câu chuyện về loài voi, ta thấy được cả một thế hệ anh hùng bị thời cuộc vùi dập. Nhưng dù có thất bại, dù có bị lãng quên, thì tiếng gào của họ vẫn vang vọng, vẫn để lại dấu ấn trong lịch sử.

Và khi đọc bài thơ này, chúng ta không chỉ thấy một con voi già cô độc, mà còn thấy bóng dáng những bậc chí sĩ yêu nước, những con người đã dành cả đời mình để đấu tranh cho quê hương. Tiếng gào ấy – dẫu không ai nghe thấu – vẫn là một khúc ca bi tráng, mãi mãi khắc ghi trong lòng người đọc.

*

Phạm Huy Thông (1916–1988) – Nhà thơ, nhà giáo, nhà khoa học xã hội Việt Nam

Phạm Huy Thông sinh ngày 22 tháng 11 năm 1916 tại Hà Nội, trong một gia đình kinh doanh lớn, giàu tinh thần dân tộc. Ông là hậu duệ của danh tướng Phạm Ngũ Lão, quê gốc ở Hưng Yên.

Ngay từ nhỏ, Phạm Huy Thông đã bộc lộ tài năng xuất sắc. Ông nổi tiếng trong phong trào Thơ Mới với bài Tiếng địch sông Ô khi mới 16 tuổi. Năm 21 tuổi, ông tốt nghiệp cử nhân Luật tại Viện Đại học Đông Dương, sau đó sang Pháp tiếp tục học tập và trở thành Tiến sĩ Luật, Thạc sĩ Sử – Địa khi mới 26 tuổi. Ông từng là Giáo sư, Ủy viên Hội đồng Giáo dục tối cao của Pháp và có thời gian giúp việc Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Hội nghị Fontainebleau năm 1946.

Sau khi trở về Việt Nam, ông giữ nhiều trọng trách như Hiệu trưởng Trường Đại học Sư phạm Hà Nội (1956–1966), Viện trưởng Viện Khảo cổ học (1967–1988), Đại biểu Quốc hội khóa II, III. Ông có nhiều đóng góp trong nghiên cứu lịch sử, khảo cổ học với các công trình tiêu biểu như Thời đại các Vua Hùng dựng nước, Khảo cổ học 10 thế kỷ sau Công nguyên, Khảo cổ học với văn minh thời Trần.

Bên cạnh sự nghiệp khoa học, ông còn là nhà thơ, có thơ được nhắc đến trong Thi nhân Việt Nam của Hoài Thanh – Hoài Chân. Năm 2000, ông được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh. Tên ông được đặt cho nhiều con đường tại Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh.

Ông qua đời ngày 21 tháng 6 năm 1988 tại Hà Nội.

Viên Ngọc Quý.

Bạn cũng có thể thích..

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *