Cảm nhận bài thơ: Dăm bài ca I – Trăng thâu rọi bóng – Huy Thông

Dăm bài ca I – Trăng thâu rọi bóng

Ouvre ton âme et ton oreille au son
De ma mandoline
Pour toi, j’ai fait, pour toi, cette Chanson
Cruelle et câline
PAUL VERLAINE


Trăng thâu rọi bóng, ngoài sân,
Trên vừng dương liễu vì xuân mơ màng.
Họa mi dìu dặt tiếng vàng
Hương hồng thoang thoảng dịu dàng xa đưa.

Họa mi dìu dặt tiếng vàng.
Ta say gẩy khúc Kỳ hoàng nàng nghe,
Mà lầu vẫn rủ màn the,
Nàng còn bến mộng hồn mê chập chờn.

Mà lầu vẫn rủ màn the
Nàng không tựa cửa đê mê nghe đàn.
Trăng thâu rọi bóng ngoài sân…
Nàng không thiết tiếng ái ân bên ngoài.

Trăng thâu rọi bóng, ngoài sân,
Trên vừng dương liễu vì xuân mơ màng.
Họa mi dìu dặt tiếng vàng
Hương hồng thoang thoảng dịu dàng xa đưa.

*

Trăng Thâu Rọi Bóng – Tiếng Đàn Cô Đơn Trước Cửa Mộng

Có những bài thơ chỉ cần đọc lên đã nghe thấy một nỗi buồn dịu dàng, như tiếng đàn ngân trong đêm tĩnh mịch. “Dăm bài ca I – Trăng thâu rọi bóng” của Huy Thông chính là một khúc nhạc như thế – vừa đẹp, vừa u hoài, mang theo tiếng lòng của một kẻ si tình, gảy lên giữa không gian huyền hoặc mà không ai đáp lại.

Lời đề từ – Một tiếng gọi tình yêu không hồi đáp

Bài thơ Dăm bài ca I – Trăng thâu rọi bóng của Huy Thông mở đầu bằng một câu thơ tiếng Pháp trích từ Paul Verlaine:

“Ouvre ton âme et ton oreille au son
De ma mandoline
Pour toi, j’ai fait, pour toi, cette Chanson
Cruelle et câline.”

(Tạm dịch: Hãy mở tâm hồn và đôi tai ra đón nhận âm thanh từ chiếc đàn mandoline của ta. Vì em, ta đã tạo nên khúc hát này – vừa dịu dàng, vừa tàn nhẫn.)

Lời đề từ như một lời nhắn gửi đầy tha thiết của người nghệ sĩ đến người mình yêu. Tiếng đàn là tiếng lòng, là tất cả tâm tư và khát khao mà chàng gửi gắm. Nhưng trớ trêu thay, dù khúc nhạc ấy có ngọt ngào đến đâu, nó vẫn mang trong mình sự tàn nhẫn – vì người nghe chẳng hề đón nhận. Chính từ những câu thơ này, ta có thể cảm nhận được nỗi cô đơn, sự lạc lõng của một trái tim yêu mà không tìm thấy hồi đáp.

Không gian lãng mạn nhưng nhuốm màu cô đơn

Mở đầu bài thơ, Huy Thông vẽ nên một khung cảnh tràn đầy chất thơ:

“Trăng thâu rọi bóng, ngoài sân,
Trên vừng dương liễu vì xuân mơ màng.
Họa mi dìu dặt tiếng vàng
Hương hồng thoang thoảng dịu dàng xa đưa.”

Hình ảnh trăng sáng, dương liễu nghiêng mình, tiếng họa mi cất lên, hương hoa hồng phảng phất… tất cả đều là những biểu tượng của sự mộng mơ, của tình yêu dịu dàng và lãng mạn. Ánh trăng như một nhân chứng lặng lẽ soi chiếu nỗi lòng của người nghệ sĩ, còn tiếng chim như những âm thanh vang lên giữa đêm, tựa như tiếng đàn mà chàng đang gảy lên để gửi đến người yêu. Nhưng cảnh đẹp ấy lại nhuốm màu cô đơn – khi chỉ có ánh trăng và gió đêm lắng nghe, còn người được mong đợi lại vẫn ở một nơi xa vời.

Tiếng đàn cất lên mà không ai lắng nghe

Tiếp nối không gian lãng mạn ấy là hình ảnh người nghệ sĩ say sưa gảy đàn:

“Ta say gẩy khúc Kỳ hoàng nàng nghe,
Mà lầu vẫn rủ màn the,
Nàng còn bến mộng hồn mê chập chờn.”

Khúc đàn ấy không chỉ là một bài ca mà còn là tiếng lòng của chàng, là nỗi khát khao được chia sẻ, được yêu thương. Nhưng tiếc thay, người con gái ấy lại chẳng hề hay biết. Nàng vẫn chìm trong giấc mộng của riêng mình, vẫn lặng lẽ sau tấm màn the khép kín. Ở đây, hình ảnh “màn the” không chỉ là một bức rèm che thực thể, mà còn là khoảng cách vô hình giữa hai tâm hồn – một kẻ si tình, một người vô tâm.

Tiếng đàn cứ vang lên, nhưng người nghe lại chẳng lắng lòng. Điều này khiến ta liên tưởng đến nỗi cô đơn muôn thuở của những người yêu đơn phương, khi họ gửi trọn tình cảm nhưng chỉ nhận về sự im lặng.

Điệp khúc trăng rọi bóng – Sự lặp lại của nỗi cô đơn

Điệp khúc “Trăng thâu rọi bóng, ngoài sân” lặp đi lặp lại trong bài thơ, như nhấn mạnh sự tĩnh lặng đến đáng buồn của đêm trăng. Trăng vẫn soi sáng, cảnh vật vẫn đẹp, nhưng lòng người lại vắng lặng. Ánh trăng thâu đêm ấy không chỉ là ánh sáng mà còn là sự thấu hiểu, là chứng nhân cho tình yêu vô vọng của người nghệ sĩ.

“Nàng không thiết tiếng ái ân bên ngoài.”

Chỉ một câu thơ nhưng đã bộc lộ trọn vẹn nỗi xót xa. Chàng có thể cất lên khúc nhạc tha thiết đến đâu, có thể mong chờ đến thế nào, nhưng nàng vẫn không quan tâm. Đây không còn là câu chuyện của một người, mà là hình ảnh chung của bao trái tim yêu trong vô vọng – khi một bên hết lòng dâng hiến, còn một bên chẳng hề hay biết.

Lời kết – Tiếng đàn mãi lẻ loi giữa đêm trăng

Bài thơ khép lại vẫn bằng khung cảnh ban đầu, như thể thời gian không hề dịch chuyển, chỉ có lòng người đang dần trĩu nặng hơn. Tình yêu của người nghệ sĩ vẫn nguyên vẹn đó, tiếng đàn vẫn vang lên đó, nhưng niềm hy vọng lại ngày một mờ nhạt.

Dăm bài ca I – Trăng thâu rọi bóng không chỉ là một bài thơ về tình yêu đơn phương, mà còn là một bức tranh đầy cảm xúc về nỗi cô đơn của những tâm hồn nghệ sĩ. Họ yêu mãnh liệt, họ sống bằng trái tim, nhưng không phải lúc nào tình yêu cũng được đền đáp. Có lẽ, ánh trăng vẫn sẽ còn rọi bóng đêm đêm, tiếng đàn vẫn sẽ còn vang vọng, nhưng liệu có khi nào… nàng sẽ thôi chìm trong giấc mộng, để cánh cửa kia hé mở, để tiếng nhạc không còn lẻ loi trong đêm?

*

Phạm Huy Thông (1916–1988) – Nhà thơ, nhà giáo, nhà khoa học xã hội Việt Nam

Phạm Huy Thông sinh ngày 22 tháng 11 năm 1916 tại Hà Nội, trong một gia đình kinh doanh lớn, giàu tinh thần dân tộc. Ông là hậu duệ của danh tướng Phạm Ngũ Lão, quê gốc ở Hưng Yên.

Ngay từ nhỏ, Phạm Huy Thông đã bộc lộ tài năng xuất sắc. Ông nổi tiếng trong phong trào Thơ Mới với bài Tiếng địch sông Ô khi mới 16 tuổi. Năm 21 tuổi, ông tốt nghiệp cử nhân Luật tại Viện Đại học Đông Dương, sau đó sang Pháp tiếp tục học tập và trở thành Tiến sĩ Luật, Thạc sĩ Sử – Địa khi mới 26 tuổi. Ông từng là Giáo sư, Ủy viên Hội đồng Giáo dục tối cao của Pháp và có thời gian giúp việc Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Hội nghị Fontainebleau năm 1946.

Sau khi trở về Việt Nam, ông giữ nhiều trọng trách như Hiệu trưởng Trường Đại học Sư phạm Hà Nội (1956–1966), Viện trưởng Viện Khảo cổ học (1967–1988), Đại biểu Quốc hội khóa II, III. Ông có nhiều đóng góp trong nghiên cứu lịch sử, khảo cổ học với các công trình tiêu biểu như Thời đại các Vua Hùng dựng nước, Khảo cổ học 10 thế kỷ sau Công nguyên, Khảo cổ học với văn minh thời Trần.

Bên cạnh sự nghiệp khoa học, ông còn là nhà thơ, có thơ được nhắc đến trong Thi nhân Việt Nam của Hoài Thanh – Hoài Chân. Năm 2000, ông được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh. Tên ông được đặt cho nhiều con đường tại Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh.

Ông qua đời ngày 21 tháng 6 năm 1988 tại Hà Nội.

Viên Ngọc Quý.

Bạn cũng có thể thích..

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *