Cảm nhận bài thơ: Dăm bài ca II – Trời sắp sáng rồi – Huy Thông

Dăm bài ca II – Trời sắp sáng rồi

Ở chân trời, trăng đã lặn rồi.
Tiếng gà văng vẳng eo óc gáy.
Trời sắp sáng rồi, Thiếu nữ ôi!
Trời sắp sáng rồi, mau đứng dậy!

Gió nhanh nhè nhẹ quét đỉnh đồi
Và uốn cong ngọn tre tha thướt.
Bờ suối, cùng ta, Thiếu nữ ôi!
Bờ suối, cùng ta mau dạo bước.

Chim líu lo từ giã cây sồi
Và văng mình bay theo gió mát.
Chúng ta cất giọng, Thiếu nữ ôi!
Chúng ta cất giọng lanh lảnh hát.

Ve trên cành đập mõ liên hồi
Bảo ta rằng đời vui vẻ lắm.
Trong vòng tình ái, Thiếu nữ ôi!
Trong vòng tình ái mau say đắm.

Ở chân trời, trăng đã lặn rồi.
Tiếng gà văng vẳng eo óc gáy.
Trời sắp sáng rồi, Thiếu nữ ôi!
Trời sắp sáng rồi, mau đứng dậy!

*

Ánh sáng và tình yêu – Bản hòa ca của bình minh

Bình minh – thời khắc của sự khởi đầu

Bài thơ “Dăm bài ca II – Trời sắp sáng rồi” của Huy Thông mở ra trong khung cảnh của một buổi sớm tinh mơ, khi bóng tối dần nhường chỗ cho ánh sáng. Điệp khúc “Trời sắp sáng rồi, Thiếu nữ ôi!” vang lên như một lời giục giã, thúc giục con người bước ra khỏi màn đêm, đón nhận những gì tươi đẹp và rực rỡ nhất của sự sống. Không chỉ đơn thuần là một khoảnh khắc chuyển giao giữa đêm và ngày, bình minh trong bài thơ còn mang ý nghĩa tượng trưng cho một khởi đầu mới, một lời mời gọi bước vào thế giới của yêu thương và say đắm.

Thiên nhiên – bức tranh đầy sức sống của tình yêu

Huy Thông đã khắc họa một bức tranh thiên nhiên ngập tràn âm thanh và chuyển động. Gió khe khẽ lướt qua đỉnh đồi, ngọn tre cong mình theo điệu vũ nhẹ nhàng, chim chóc cất tiếng líu lo tiễn biệt màn đêm, ve sầu gõ nhịp rộn ràng… Tất cả như một bản hòa ca của tạo hóa, đánh thức vạn vật khỏi giấc ngủ sâu, mời gọi con người hòa mình vào dòng chảy của sự sống. Trong bức tranh ấy, hình ảnh đôi tình nhân xuất hiện đầy lãng mạn, sánh bước bên nhau nơi bờ suối, cất lên những giai điệu trong trẻo của tình yêu.

Tình yêu – sức sống mãnh liệt giữa cuộc đời

Không chỉ là bài ca của thiên nhiên, “Dăm bài ca II – Trời sắp sáng rồi” còn là bài ca của tình yêu. Bình minh trong thơ Huy Thông không chỉ là sự khởi đầu của một ngày mới mà còn là sự thức tỉnh của con tim, là khoảnh khắc con người mở lòng để đón nhận những rung động ngọt ngào nhất. Câu thơ “Trong vòng tình ái, Thiếu nữ ôi! / Trong vòng tình ái mau say đắm.” chính là một lời mời gọi đắm mình trong tình yêu, tận hưởng những xúc cảm mãnh liệt mà cuộc đời ban tặng.

Lời giục giã của ánh sáng – Hãy sống và yêu hết mình

Lặp lại cấu trúc của khổ thơ đầu, những câu cuối bài vang lên như một lời nhấn mạnh: “Trời sắp sáng rồi, Thiếu nữ ôi! / Trời sắp sáng rồi, mau đứng dậy!” Ánh sáng đã tràn ngập chân trời, đêm tối đã lùi xa. Không ai có thể ngủ vùi trong quá khứ hay do dự trước tương lai – đã đến lúc thức tỉnh, bước ra ánh sáng, sống và yêu trọn vẹn.

Kết

“Dăm bài ca II – Trời sắp sáng rồi” là một bản nhạc rộn ràng của bình minh, của thiên nhiên, của tình yêu và của khát vọng sống. Với nhịp điệu dồn dập, hình ảnh tràn đầy sức sống và những lời giục giã tha thiết, bài thơ như một lời nhắc nhở: Đừng để bóng tối níu chân, hãy để ánh sáng dẫn đường. Hãy sống, hãy yêu, và hãy đón nhận những điều đẹp đẽ nhất mà cuộc đời ban tặng.

*

Phạm Huy Thông (1916–1988) – Nhà thơ, nhà giáo, nhà khoa học xã hội Việt Nam

Phạm Huy Thông sinh ngày 22 tháng 11 năm 1916 tại Hà Nội, trong một gia đình kinh doanh lớn, giàu tinh thần dân tộc. Ông là hậu duệ của danh tướng Phạm Ngũ Lão, quê gốc ở Hưng Yên.

Ngay từ nhỏ, Phạm Huy Thông đã bộc lộ tài năng xuất sắc. Ông nổi tiếng trong phong trào Thơ Mới với bài Tiếng địch sông Ô khi mới 16 tuổi. Năm 21 tuổi, ông tốt nghiệp cử nhân Luật tại Viện Đại học Đông Dương, sau đó sang Pháp tiếp tục học tập và trở thành Tiến sĩ Luật, Thạc sĩ Sử – Địa khi mới 26 tuổi. Ông từng là Giáo sư, Ủy viên Hội đồng Giáo dục tối cao của Pháp và có thời gian giúp việc Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Hội nghị Fontainebleau năm 1946.

Sau khi trở về Việt Nam, ông giữ nhiều trọng trách như Hiệu trưởng Trường Đại học Sư phạm Hà Nội (1956–1966), Viện trưởng Viện Khảo cổ học (1967–1988), Đại biểu Quốc hội khóa II, III. Ông có nhiều đóng góp trong nghiên cứu lịch sử, khảo cổ học với các công trình tiêu biểu như Thời đại các Vua Hùng dựng nước, Khảo cổ học 10 thế kỷ sau Công nguyên, Khảo cổ học với văn minh thời Trần.

Bên cạnh sự nghiệp khoa học, ông còn là nhà thơ, có thơ được nhắc đến trong Thi nhân Việt Nam của Hoài Thanh – Hoài Chân. Năm 2000, ông được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh. Tên ông được đặt cho nhiều con đường tại Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh.

Ông qua đời ngày 21 tháng 6 năm 1988 tại Hà Nội.

Viên Ngọc Quý.

Bạn cũng có thể thích..

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *