Dang dở
(Tặng T.T.Kh.)
Khi biết lòng anh như đã chết,
Mây thôi hồng, và lá cũng thôi xanh.
Màu hoa tươi cũng héo ở trên cành
Và vũ trụ thảy một màu đen tối.
Anh cố giữ lòng anh không bối rối
Để mơ màng tưởng nhớ phút giây xưa.
Em cùng anh sánh gót dưới bóng dừa,
Một đêm trăng sáng trên đường đá đỏ.
Em nói những gì? Anh còn nhớ rõ,
Nhưng làm sao? Ai hiểu tại làm sao?
Chim muốn bay, cũng giữ chẳng được nào,
Tình đã chết, có mong gì sống lại!
Anh không trách chi em điều ngang trái,
Anh không buồn số kiếp quá mong manh!
Có gì đâu khi bướm muốn xa cành,
Anh cứ tiếc cái gì xưa đã chết.
Nhưng anh biết cái gì xưa đã chết,
Anh càng buồn, càng muốn kết thành thơ;
Mộng đang xanh, mộng hoá bơ phờ,
Đây bài thơ chót kính dâng tặng bạn.
Và thành chúc đời em luôn tươi sáng,
Như mộng kiều đầm ấm tuổi xuân xanh,
Như hương trinh bát ngát ý dịu lành
Hoà nhạc mới triều dâng tơ Hạnh phúc.
Cuộc ly biệt ngờ đâu vừa đúng lúc,
Lòng bâng khuâng, bối rối trước khúc quanh;
Đi không đành, mà ở cũng không đành,
Muôn chim Việt hãy về thành Nam cũ.
Chiều nay lạnh, có nhiều sương rơi quá,
Nhưng lòng anh đã bình thản lại rồi.
Hết đau buồn và cảm thấy sục sôi
Niềm uất hận của một thời lạc lối.
Lấy nghệ thuật làm trò hề múa rối
Đem tài hoa cung phụng sóng mắt huyền.
Để khẩn cầu xin một nụ cười duyên;
Nàng kiều nữ chốn lầu hoa thầm kín.
Trong khi ấy, thanh niên không bịn rịn,
Giã gia đình, trường học để ra đi.
Hoạ xâm lăng đe doạ ở biên thuỳ,
Kèn gọi lính giục lòng trai cứu quốc.
Thôi em nhé! từ đây anh cất bước,
Em yên lòng vui hưởng cuộc đời vui.
Đừng buồn thương, nhớ, tiếc, hoặc ngậm ngùi,
Muôn việc thảy đều do nơi số kiếp.
*
Dang Dở – Khúc Bi Tráng Của Một Mối Tình Đã Chết
Có những cuộc tình khi đến, rực rỡ như ánh ban mai, nhưng khi đi, để lại một bầu trời tang tóc. Dang dở của Thâm Tâm là một bài thơ nhuốm màu tiếc nuối, nơi tình yêu không còn là khúc nhạc dịu êm, mà trở thành dư âm đau đớn của một linh hồn tan vỡ.
Tình yêu đã chết – Một vũ trụ phủ đầy bóng tối
Ngay từ những dòng thơ đầu tiên, tác giả đã vẽ lên một khung cảnh ảm đạm, nơi thiên nhiên cũng trở nên vô hồn trước sự lụi tàn của tình yêu:
“Khi biết lòng anh như đã chết,
Mây thôi hồng, và lá cũng thôi xanh.
Màu hoa tươi cũng héo ở trên cành
Và vũ trụ thảy một màu đen tối.”
Một tình yêu vừa đổ vỡ không chỉ làm tan nát con tim con người mà còn nhuốm đen cả thế giới xung quanh. Bầu trời không còn trong trẻo, lá thôi xanh, hoa cũng héo trên cành – tất cả như đồng cảm với nỗi cô đơn, đau đớn của người trong cuộc.
Quá khứ đẹp – nhưng mãi chỉ là quá khứ
Trong cơn tuyệt vọng, người con trai nhớ lại những kỷ niệm xưa – những giây phút tưởng chừng vĩnh cửu nhưng hóa ra lại mong manh như cánh chim trời:
“Anh cố giữ lòng anh không bối rối
Để mơ màng tưởng nhớ phút giây xưa.
Em cùng anh sánh gót dưới bóng dừa,
Một đêm trăng sáng trên đường đá đỏ.”
Nhưng, ký ức chỉ là một giấc mơ đã nhạt nhòa. Dù anh còn nhớ lời em nói, dù trái tim vẫn bồi hồi, thì có níu kéo cũng chỉ là vô vọng:
“Chim muốn bay, cũng giữ chẳng được nào,
Tình đã chết, có mong gì sống lại!”
Tình yêu một khi đã vỡ, không thể vá lành, không thể hồi sinh. Thâm Tâm không oán trách, không níu kéo, chỉ âm thầm chấp nhận nỗi đau.
Tình đã mất, chỉ còn lại thơ
Giữa đổ nát của cảm xúc, chỉ có thơ là thứ duy nhất anh còn lại để níu giữ chút dư hương tình yêu:
“Nhưng anh biết cái gì xưa đã chết,
Anh càng buồn, càng muốn kết thành thơ.”
Thơ chính là nơi Thâm Tâm trút hết nỗi lòng, là nơi anh gửi gắm những gì còn sót lại của một cuộc tình dang dở. Nhưng thơ không chỉ để bày tỏ nỗi đau, mà còn để khép lại một đoạn đời, gửi lời chúc phúc đến người từng yêu:
“Và thành chúc đời em luôn tươi sáng,
Như mộng kiều đầm ấm tuổi xuân xanh.”
Tình riêng dang dở, nhưng nghĩa lớn vẫn vẹn toàn
Nhưng Dang dở không chỉ là một bài thơ tình. Đằng sau nỗi đau của trái tim, Thâm Tâm dần nhận ra một con đường khác – con đường của dân tộc, của lý tưởng lớn lao:
“Lấy nghệ thuật làm trò hề múa rối
Đem tài hoa cung phụng sóng mắt huyền.
Để khẩn cầu xin một nụ cười duyên;
Nàng kiều nữ chốn lầu hoa thầm kín.”
Anh tự trách mình đã từng đắm chìm trong những chuyện tình vô nghĩa, lãng phí tài năng vào những thứ phù phiếm. Trong khi đó, ngoài kia, những người thanh niên cùng thế hệ đang từ giã mái nhà, trường học để lên đường chiến đấu cho đất nước:
“Trong khi ấy, thanh niên không bịn rịn,
Giã gia đình, trường học để ra đi.
Hoạ xâm lăng đe doạ ở biên thuỳ,
Kèn gọi lính giục lòng trai cứu quốc.”
Câu thơ như một hồi chuông thức tỉnh, đánh dấu sự chuyển mình của nhân vật trữ tình – từ một kẻ si tình lạc lối đến một con người có ý chí, biết gác lại chuyện riêng tư để hướng đến đại nghĩa.
Lời chia tay sau cùng – giải thoát cho cả hai
Ở cuối bài thơ, không còn là những tiếc nuối hay đau đớn, mà là sự giải thoát:
“Thôi em nhé! từ đây anh cất bước,
Em yên lòng vui hưởng cuộc đời vui.
Đừng buồn thương, nhớ, tiếc, hoặc ngậm ngùi,
Muôn việc thảy đều do nơi số kiếp.”
Câu thơ cuối cùng không còn chút oán hận, không còn những mong mỏi níu kéo. Chỉ có sự bình thản, sự dứt khoát để mỗi người đi về một hướng – em ở lại với cuộc đời vui vẻ, còn anh cất bước trên con đường mới.
Lời kết – “Dang Dở” nhưng không bi lụy
Tình yêu trong Dang dở không kết thúc trong nước mắt mà khép lại bằng sự chấp nhận và trưởng thành. Đó không chỉ là câu chuyện của một cuộc tình thất bại, mà còn là hành trình của một con người, từ đau khổ mà vươn lên, từ nỗi buồn riêng mà nhận ra lý tưởng lớn lao hơn.
Tình yêu có thể tàn, nhưng không có nghĩa là mọi thứ đều chấm dứt. Cuộc đời vẫn tiếp diễn, và con đường phía trước vẫn rộng mở. Và có lẽ, chính nhờ những “dang dở” ấy, con người ta mới đủ mạnh mẽ để tiếp tục đi về phía trước…
*
Thâm Tâm – Nhà Thơ Của Hào Khí Và Ly Biệt
Thâm Tâm (1917–1950), tên thật là Nguyễn Tuấn Trình, là một nhà thơ và nhà viết kịch tiêu biểu của Việt Nam. Ông được biết đến nhiều nhất qua bài thơ Tống biệt hành, tác phẩm mang phong cách hòa quyện giữa cổ điển và hiện đại, thể hiện hào khí mạnh mẽ và nỗi bi tráng trong từng câu chữ.
Sinh ra tại Hải Dương trong một gia đình nhà giáo, Thâm Tâm từ nhỏ đã sớm bộc lộ tài năng nghệ thuật. Ông từng kiếm sống bằng nghề vẽ tranh trước khi bước vào con đường văn chương. Những năm 1940, ông hoạt động sôi nổi trên các tờ báo như Tiểu thuyết thứ bảy, Ngày nay, và đặc biệt thành công với thể loại thơ. Thơ ông đa dạng về cảm xúc, lúc buồn sâu lắng, lúc trầm hùng, bi ai, lúc lại rộn ràng niềm vui.
Sau Cách mạng tháng Tám 1945, Thâm Tâm tích cực tham gia phong trào văn hóa Cứu quốc, làm biên tập viên báo Tiên Phong rồi nhập ngũ, trở thành thư ký tòa soạn báo Vệ quốc quân (sau này là Quân đội Nhân dân). Ông qua đời đột ngột vào năm 1950 trong một chuyến công tác tại chiến dịch Biên giới, để lại nhiều tiếc thương.
Sinh thời, Thâm Tâm chưa in tập thơ nào, nhưng những sáng tác của ông được tập hợp và xuất bản vào năm 1988 trong tuyển tập Thơ Thâm Tâm. Ngoài Tống biệt hành, ông còn nổi tiếng với các bài thơ Gửi T.T.Kh., Màu máu Tygôn, Dang dở, gắn liền với câu chuyện tình bí ẩn về thi sĩ T.T.Kh.
Bên cạnh thơ, Thâm Tâm còn sáng tác nhiều kịch bản như Sương tháng Tám, Lá cờ máu, Người thợ… Năm 2007, ông được truy tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật, khẳng định những đóng góp quan trọng của ông đối với nền văn học Việt Nam.
Với phong cách thơ vừa lãng mạn vừa bi tráng, giàu cảm xúc nhưng cũng đầy hào khí, Thâm Tâm mãi mãi là một trong những gương mặt tiêu biểu của thi ca Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX.
Viên Ngọc Quý.