Dâng đức Khổng Tử
(Sài Gòn: Tổng hội Khổng học Việt Nam cho phối hợp với Bộ Văn hoá tổ chức Khánh đản Khổng Tử vào hồi 10 giờ sáng thứ năm 28-9 tại Viện Quốc gia Âm nhạc, 12 đường Nguyễn Du, Sài Gòn)
Diệu Huyền cúi lạy Đức Khổng Tử
Ngài tha cho con tội “yêu thư yêu ngôn”
Nhưng niềm “lễ nghĩa” con vẫn giữ,
Rất kính phục Ngài là bậc Thánh nhơn
Triết lý của Ngài bao la trời biển
Đạo đức của Ngài đoan chính thanh liêm
Thanh thế của Ngài ngàn thu vinh hiển,
Uy danh của Ngài vạn đại tôn nghiêm
Nay ngày Thánh đản
Tệ nữ Diệu Huyền
Dâng ngài điều trần một bản
Dĩ thực tế vi tiên
Huyền cúi đầu, hề, kính cụ Khổng Khâu,
Thế hệ hai mươi, hề, thời đại hoả tiễn,
Đợt sống mới, hề, loạn xị xà ngầu,
Thụ thụ rất thân, hề, nam nữ biểu diễn
Tam cang ngũ thường, hề, gió cuốn mất tiêu
Quân thần tan nát, hề, huống chi phụ tử
Phu phụ rời rạc, hề, như bọt như bèo,
Tứ đức tam tòng, hề, kể chi khai tử
Gái “mini jupe”, hề, “đề-con-lờ-tê”
Hở ngực hở đùi, hề, cho đàn ông ngắm,
Cỡi xe Honda, hề, chạy bay văng tê,
“Xì líp, xu chieng” hề, nhảy ra biển tắm
“Xi-ti-uây” (C.T.Y.) hề, cho không tình yêu,
Gái bán Bar, hề, đeo theo ngoại kiều,
Cười toe toét, hề, đú đa đú đởn,
“Ô-kê Sa-lem” hề, tự đắc hiu hiu,
Gái 14, 15 hề, trốn nhà theo trai,
Trai 16,17 hề bất tuân phụ mẫu
Học trò cao bồi, hề, cầm dao đâm thầy
Bằng hữu chi giao, hề, như mã cẩu.
Hành chánh, hề, ăn hối lộ lu bù.
Ứng cử Tổng thống, hề, cổ động láo toét,
Lừa bịp dân chúng, hề, tưởng đâu dân ngu
Ham uy quyền, hề, để đục khoét,
Cộng sản lợi dụng, hề, xã hội rối ren,
Tình hình xôi thịt, hề, thối nát, ôi thối nát,
Tuyên truyền phá rối, hề, chánh trị leng beng,
Gây khủng bố, hề, lựu đạn tàn sát.
Thế cho nên,
Huyền lạy Ngài Khổng Tử,
Ước mong Ngài tái sinh,
Để ngài tề gia trị quốc thử,
Cho thiên hạ hoà bình.
Hoạ may có Ngài chỉnh huấn,
Cứu quốc cứu dân.
Mới mong đời Nghiêu, Thuấn
Hoà bình, hạnh phúc, vân vân…!
Đăng trên Tạp chí Phổ thông số 201, ngày 15-10-1967.
*
Lời Khẩn Cầu Trước Bóng Ngài Khổng Tử
Niềm Kính Phục Và Lời Sám Hối
Nguyễn Vỹ – với bút danh Diệu Huyền – đã mở đầu bài thơ “Dâng Đức Khổng Tử” bằng một sự đối diện đầy tôn kính với bậc Thánh nhân của Nho giáo. Tác giả cúi lạy, nhận lỗi vì từng có những lời lẽ phê phán, nhưng đồng thời vẫn giữ trọn niềm tôn sùng với nền đạo đức mà Khổng Tử truyền dạy. Những câu thơ đầu tiên như một lời sám hối chân thành, thừa nhận rằng triết lý của Ngài là một chân lý bất diệt, một chuẩn mực cao quý của nhân loại.
Xã Hội Đảo Điên – Những Giá Trị Cổ Xưa Đã Bị Cuốn Trôi
Nếu đoạn đầu là sự kính phục, thì càng về sau, bài thơ càng dâng trào một nỗi xót xa, bức xúc trước thời cuộc. Nguyễn Vỹ không ngần ngại mô tả một xã hội đang mất phương hướng, nơi mà tam cang, ngũ thường đã bị gió cuốn đi, phu phụ, phụ tử cũng chẳng còn gắn bó. Những chuẩn mực luân lý xưa bị thay thế bằng một cuộc sống hỗn loạn, con cái không nghe lời cha mẹ, học trò đâm thầy, bằng hữu phản bội nhau. Đó là dấu hiệu của một nền đạo đức đang suy tàn.
Hình ảnh phụ nữ hiện đại cũng được tác giả nhắc đến bằng một giọng điệu châm biếm cay đắng. Những cô gái diện “mini jupe”, “xì líp, xu chiêng” chạy xe Honda vùn vụt ngoài đường, hay thậm chí bán thân cho ngoại kiều, là minh chứng cho một thời đại mà giá trị đạo đức bị lãng quên, nhường chỗ cho lối sống phóng túng và suy đồi.
Sự Thối Nát Của Chính Trị Và Xã Hội
Không dừng lại ở việc than thở về sự suy đồi của đạo đức cá nhân, Nguyễn Vỹ tiếp tục vạch trần sự mục ruỗng của bộ máy hành chính và chính trị. Ông chỉ thẳng những kẻ tham quan hối lộ, những ứng cử viên dối trá, những nhà lãnh đạo chỉ lo cho quyền lợi cá nhân mà bỏ mặc quốc gia. Sự hỗn loạn của thời cuộc không chỉ đến từ những cá nhân tha hoá mà còn từ sự vô trách nhiệm của những kẻ cầm quyền, khiến đất nước rơi vào vòng xoáy bất ổn.
Lời Khẩn Cầu Trong Tuyệt Vọng
Giữa cảnh đổ nát của xã hội, tác giả ngước nhìn lên bóng hình Khổng Tử, mong Ngài tái sinh, trở về để cứu rỗi nhân gian. Lời khẩn cầu ấy không chỉ là một sự tiếc nuối những giá trị đạo đức xưa cũ, mà còn thể hiện nỗi tuyệt vọng về hiện thực. Nguyễn Vỹ không chỉ nhắc đến Khổng Tử như một triết gia, mà còn như một vị cứu tinh duy nhất có thể đưa xã hội trở lại trật tự và hòa bình.
Tiếng Kêu Đầy Xót Xa Của Một Kẻ Sĩ Thời Loạn
Bài thơ “Dâng Đức Khổng Tử” không chỉ là một bài thơ ca tụng, mà là một lời than thở về sự sụp đổ của đạo đức và xã hội. Nó mang trong mìnhnỗi đau của một kẻ sĩ chứng kiến thời cuộc hỗn mang, nhưng bất lực trước sự xuống cấp ấy. Nguyễn Vỹ đã dùng ngòi bút sắc bén, kết hợp giữasự châm biếm, trào phúng và nỗi lòng chân thành, để tạo nên một bức tranh xã hội vừa bi thảm, vừa đầy trăn trở.
Bài thơ khép lại bằng hy vọng Khổng Tử sẽ trở lại để lập lại trật tự, nhưng thực tế, đó là một tiếng thở dài của một người biết rằng, thời đại đã không còn như xưa, và những giá trị từng được tôn thờ có lẽ sẽ không bao giờ trở lại.
*
Nguyễn Vỹ – Nhà thơ, nhà báo kiên định với lý tưởng
Nguyễn Vỹ (1912 – 1971) là một nhà thơ, nhà báo nổi bật trong nền văn học Việt Nam thời tiền chiến. Ông không chỉ được biết đến qua hai bài thơ gây tiếng vang: Gởi Trương Tửu và Sương rơi, mà còn ghi dấu ấn với nhiều tác phẩm đa dạng từ thơ ca, tiểu thuyết đến biên khảo.
Sinh tại Quảng Ngãi, Nguyễn Vỹ sớm bộc lộ tư tưởng yêu nước, từng nhiều lần bị bắt giam vì các hoạt động chống thực dân Pháp và phát xít Nhật. Ông cũng là người sáng lập nhiều tờ báo như Việt – Pháp, Tổ quốc, Dân chủ, Dân ta, trong đó tạp chí Phổ Thông được đánh giá cao về văn học và nghệ thuật.
Thơ Nguyễn Vỹ mang phong cách riêng biệt, thể nghiệm nhiều lối viết mới. Dù từng bị phê phán, nhưng ông vẫn kiên trì theo đuổi con đường sáng tạo, để lại dấu ấn với những tác phẩm thể hiện nỗi trăn trở về xã hội và vận mệnh con người.
Ông qua đời năm 1971 do tai nạn giao thông, khép lại cuộc đời một người cầm bút nhiệt huyết, dấn thân không ngừng vì văn chương và tư tưởng.
Viên Ngọc Quý.