Cảm nhận bài thơ: Đất nước – Xuân Diệu

Đất nước

 

Tôi đứng bờ sông Lam
Tự núi chàm chảy đến;
Đường bóng tre thân mến
Đưa tới bến đò Cung;
Tôi sang rú Treo, thấy biếc rừng thông;
Đi khúc nữa, tôi giữa đồng lúa dịu:
Ôi cái cuộc bao vây huyền diệu
Những là chè, là mít, những là cau!
Những là chòm, là xóm đẹp như nhau!
Quay bốn phía, chỉ một màu: Đất Nước.
Thoang thoảng hương cau lồng phía trước,
Rập rờn lá mít ánh đằng sau.
Những sân con liền tiếp những vườn rau,
Những mái rạ bền lâu như vạn thuở.
Và bờ giếng gốc đa đều rạng rỡ
Bước nông dân phát động dẫm trên đường:
Xã Cát Văn, một mảnh đất Thanh Chương,
Mà tôi thấy cả quê hương nước Việt.

Trong chiến đấu, tình yêu càng thắm thiết:
Khi tốn công trèo hái, trái ngon hơn;
Tay vỡ hoang, ruộng mới quý như con;
Cày cấy khổ, nên thóc liền với ruột.
Làng quê kia, trước tôi nhìn lạnh nhạt,
Khách thị thành vênh váo tạt vài hôm;
Từ khi làm cán bộ Đội về thôn,
Làng quê ấy tôi chăm nom khuya sớm.
Móc đất đắp bờ, lội bùn bì bõm;
Cơm khoai xẻ bát, giường nát chung nằm;
Đèn hắt hiu khêu gợi uất ngàn năm,
Đêm tố khổ chẳng ai cầm nước mắt;
Xong buổi họp chòm, mệt người ngây ngất;
Tiếng hô rần rật Đại hội Nông dân;
Giữa đầu đường, tên địa chủ toàn thân
Như cái dẻ trước dân cày bão táp;
Hai tháng đổi đời, long trời, lở đất,
Bạn cố bần vùng dậy tựa vừng đông:
Tôi với nông dân đấu cật, chung lòng,
Chung câu hò, tiếng thét, lời mong,
Tôi suy nghĩ, tuyên truyền, động viên, xếp đặt,
Như tôi đã đổ mồ hôi, sôi nước mắt
Ướt xuống đồng, rơi vào đất Cát Văn:
Nên đến nay tôi thấy đẹp vô ngần
Mỗi mạch máu, mỗi đường gân đất nước.
Cuộc phát động đã xe dây ràng buộc
Tâm hồn tôi liền chặt với non sông;
Thấy nông dân, tôi hiểu bức thành đồng;
Sâu một xã, tôi thấu toàn tổ quốc.
Và từ ấy lòng tôi mê đất nước
Như chiến dịch về, anh bộ đội lớn thêm
Thiết tha nhìn giòng sông chảy xanh êm
Và ánh đẹp chiều vàng trên ruộng lúa
Anh hò hẹn máu anh dù có
Sẽ giữ tròn làng mạc với đồi nương.
Bởi vì:
Nghìn năm Tổ quốc, quê hương
Là hòn đất trộn với xương máu mình.


8-1954

*

Đất Nước – Tình yêu từ giọt mồ hôi và máu thịt

Có những bài thơ không chỉ là những câu chữ, mà còn là hơi thở của đất, là dòng máu chảy trong lòng người. Đất nước của Xuân Diệu là một bài thơ như thế. Không ca ngợi đất nước bằng những lời hoa mỹ, không kể chuyện quê hương bằng những hình ảnh lộng lẫy, bài thơ này mang đến một cảm xúc chân thực: tình yêu nước gắn liền với lao động, với đấu tranh, với từng giọt mồ hôi, từng vết bùn lấm lem trên đôi chân nông dân.

Từ phong cảnh quê hương đến bản sắc đất nước

Bài thơ mở ra bằng những hình ảnh bình dị mà đầy sức sống:

“Tôi đứng bờ sông Lam
Tự núi chàm chảy đến;
Đường bóng tre thân mến
Đưa tới bến đò Cung;”

Chỉ bốn câu thơ nhưng gợi mở cả một miền quê xứ Nghệ. Dòng sông Lam chảy hiền hòa, những hàng tre tỏa bóng thân thuộc, những bến đò gắn bó với đời sống nông dân. Cảnh sắc này không chỉ là một miền quê cụ thể, mà là hình ảnh thu nhỏ của đất nước Việt Nam, nơi mà đâu đâu cũng thấy:

“Những là chè, là mít, những là cau!
Những là chòm, là xóm đẹp như nhau!
Quay bốn phía, chỉ một màu: Đất Nước.”

Không phải những kỳ quan hùng vĩ, không phải những thành phố rực rỡ, đất nước trong bài thơ hiện lên qua những điều giản dị nhất: những mái rạ bền lâu, những sân con, những vườn rau… Đó chính là vẻ đẹp chân thật của quê hương – nơi từng tấc đất thấm đẫm mồ hôi người lao động.

Tình yêu đất nước sinh ra từ lao động và đấu tranh

Xuân Diệu không chỉ đứng ngoài chiêm ngưỡng quê hương, ông đã thực sự hòa vào đời sống của nông dân, và từ đó, tình yêu đất nước trong ông không còn là một khái niệm trừu tượng, mà trở nên máu thịt, chân thực:

“Làng quê kia, trước tôi nhìn lạnh nhạt,
Khách thị thành vênh váo tạt vài hôm;
Từ khi làm cán bộ Đội về thôn,
Làng quê ấy tôi chăm nom khuya sớm.”

Ông từng là “khách thị thành”, từng xa lạ với nông thôn. Nhưng khi trở thành người của cách mạng, cùng nông dân lội bùn, ăn cơm khoai, chia sẻ những đêm tố khổ, ông mới thực sự hiểu thế nào là quê hương, thế nào là đất nước.

Những ngày phát động đấu tranh đã thay đổi không chỉ cuộc sống nông dân, mà còn thay đổi chính ông:

“Hai tháng đổi đời, long trời, lở đất,
Bạn cố bần vùng dậy tựa vừng đông.”

Hình ảnh “tên địa chủ toàn thân như cái dẻ trước dân cày bão táp” cho thấy sự chuyển mình của xã hội: những kẻ từng thống trị, bóc lột giờ phải cúi đầu trước sức mạnh của nhân dân. Đây không chỉ là sự thay đổi về quyền lực, mà còn là sự giải phóng con người, trả lại công bằng cho những người đã từng bị áp bức.

Tình yêu đất nước – từ trái tim đến hành động

Sau tất cả, Xuân Diệu nhận ra rằng tình yêu đất nước không phải là điều gì xa vời, mà chính là sự gắn bó với nhân dân, với ruộng đồng, với cuộc đấu tranh vì công bằng:

“Tôi suy nghĩ, tuyên truyền, động viên, xếp đặt,
Như tôi đã đổ mồ hôi, sôi nước mắt
Ướt xuống đồng, rơi vào đất Cát Văn.”

Từ một xã nhỏ bé, ông thấu hiểu cả một đất nước rộng lớn:

“Sâu một xã, tôi thấu toàn tổ quốc.”

Và từ đó, tình yêu đất nước trong ông trở thành một điều tất yếu, tự nhiên như máu chảy trong tim:

“Và từ ấy lòng tôi mê đất nước
Như chiến dịch về, anh bộ đội lớn thêm.”

Cuối bài thơ, Xuân Diệu khẳng định một chân lý giản dị mà thiêng liêng:

“Nghìn năm Tổ quốc, quê hương
Là hòn đất trộn với xương máu mình.”

Đất nước không chỉ là cảnh đẹp, không chỉ là đồng lúa xanh rì hay dòng sông lặng lẽ, mà còn là mồ hôi, là nước mắt, là xương máu của bao thế hệ.

Lời kết

Đất nước của Xuân Diệu không phải là bài thơ ca ngợi quê hương theo cách lãng mạn, bay bổng. Đó là bài thơ của một người đã thực sự sống với nông dân, đã lao động, đã đấu tranh, đã đổ mồ hôi xuống từng tấc đất. Qua từng câu chữ, ta cảm nhận được một tình yêu nước chân thành, sâu sắc, được xây đắp từ những trải nghiệm thật, những hy sinh thật.

Bài thơ cũng nhắc nhở chúng ta rằng tình yêu đất nước không chỉ nằm trong những lời nói, mà phải được thể hiện bằng hành động – bằng sự cống hiến, bằng lao động, bằng sự đấu tranh để bảo vệ quê hương, để giữ gìn từng tấc đất, từng mái nhà, từng dòng sông.

Vì đất nước không chỉ là nơi ta sinh ra – mà còn là nơi cha ông ta đã đổ máu để gìn giữ, là nơi thế hệ hôm nay phải tiếp tục bảo vệ bằng tất cả tấm lòng.

*

Xuân Diệu – “Ông hoàng thơ tình” của văn học Việt Nam

Xuân Diệu (1916–1985), tên khai sinh là Ngô Xuân Diệu, là một trong những nhà thơ xuất sắc nhất của nền văn học hiện đại Việt Nam. Với phong cách sáng tác độc đáo, giàu cảm xúc và khát vọng yêu đời mãnh liệt, ông đã để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng bao thế hệ độc giả.

Sinh ra tại Hà Tĩnh nhưng lớn lên ở Quy Nhơn, Bình Định, Xuân Diệu sớm bộc lộ niềm đam mê văn chương. Ông là gương mặt tiêu biểu của phong trào Thơ Mới, mang đến một luồng sinh khí mới cho thi ca Việt Nam. Những tác phẩm như Thơ thơ (1938) hay Gửi hương cho gió (1945) thể hiện rõ nét giọng điệu sôi nổi, táo bạo, chan chứa tình yêu và khát khao tận hưởng vẻ đẹp cuộc sống.

Sau năm 1945, Xuân Diệu chuyển hướng sáng tác, hòa mình vào dòng chảy cách mạng, ca ngợi quê hương, đất nước và con người lao động. Dù ở giai đoạn nào, thơ ông vẫn giữ nguyên vẹn sự say mê và rung động sâu sắc. Những tác phẩm như Riêng chung (1960) hay Hai đợt sóng (1967) tiếp tục khẳng định vị trí của ông trên thi đàn.

Không chỉ là nhà thơ, Xuân Diệu còn là nhà văn, nhà phê bình có ảnh hưởng lớn. Năm 1996, ông được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật, ghi nhận những đóng góp to lớn của mình.

Xuân Diệu vẫn mãi là biểu tượng của thơ tình Việt Nam, là tiếng nói tha thiết của một tâm hồn luôn khát khao yêu và sống trọn vẹn từng khoảnh khắc:

“Hãy tận hưởng ngày giờ đang thở,
Và yêu đời, hãy sống mạnh hơn tôi.”

Viên Ngọc Quý

Bạn có thể chia sẻ bài viết qua:

Bạn cũng có thể thích..

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *