Đêm rằm tháng giêng
Chùa mở hội người làng nô nức tới,
Trong khói trầm trong ánh nến xôn xao.
Các bà lão yếm hồng tươi khoe mới,
Các cô nàng khuyên bạc sáng như sao.
Họ hớn hở người thì quì xuống lễ
Sau lưng sư trước mặt phật từ bi.
Người lẳng lặng cúi đầu ngồi xóc thẻ
Cạnh chuông đồng luôn đổ tiếng bi li…
Trong khi ấy, dưới điện mờ hương khói,
Bác cung văn cao giọng nhịp tơ đàn.
Be bà đồng trùm khăn ngồi đảo vội.
Những con hương xoa xuýt xúm kêu van.
Ngoài sân chùa trăng tươi tung ánh bạc
Lũ trai tơ rộn rịp lượn vào ra.
Thỉnh thoảng họ lại nam vô lên một loạt
Và cười trêu các ả đến dâng hoa.
*
Đêm Rằm Tháng Giêng – Khi Hồn Làng Hòa Trong Ánh Trăng
Rằm tháng Giêng – đêm trăng tròn đầu tiên của năm mới, khi ánh trăng tỏa sáng rực rỡ, soi rọi từng nếp nhà, từng góc sân, từng mái chùa cổ kính. Trong bài thơ Đêm rằm tháng Giêng, Anh Thơ đã vẽ nên một bức tranh sinh động về lễ hội làng quê Việt Nam, nơi tâm linh và đời sống giao hòa, nơi con người tìm đến chùa không chỉ để cầu an mà còn để tận hưởng không khí rộn ràng của ngày hội.
Ngay từ những câu thơ đầu, cảnh tượng tưng bừng của ngày hội hiện ra đầy sinh động:
“Chùa mở hội người làng nô nức tới,
Trong khói trầm trong ánh nến xôn xao.
Các bà lão yếm hồng tươi khoe mới,
Các cô nàng khuyên bạc sáng như sao.”
Dưới ánh nến lung linh và làn khói trầm bảng lảng, dòng người nô nức kéo đến chùa trong niềm vui phấn khởi. Các bà lão diện những chiếc yếm hồng mới tinh, các cô gái trẻ đeo khuyên bạc lấp lánh như sao đêm. Đó không chỉ là một cuộc hành hương mà còn là dịp để người ta khoe sắc, khoe duyên, để mùa xuân hiện hữu không chỉ trên cảnh vật mà còn trong chính con người.
Nhưng giữa khung cảnh rộn ràng ấy, vẫn có những khoảng lặng trang nghiêm:
“Họ hớn hở người thì quì xuống lễ
Sau lưng sư trước mặt phật từ bi.
Người lẳng lặng cúi đầu ngồi xóc thẻ
Cạnh chuông đồng luôn đổ tiếng bi li…”
Người thì thành kính quỳ lạy trước tượng Phật, người thì lặng lẽ xóc thẻ, mong tìm kiếm một điềm báo tốt lành cho năm mới. Tiếng chuông đồng ngân lên những hồi trầm mặc, như nhắc nhở con người về cõi thiêng liêng giữa dòng đời huyên náo.
Không chỉ có nghi lễ trang nghiêm, trong chùa còn diễn ra những hoạt động đậm chất dân gian:
“Trong khi ấy, dưới điện mờ hương khói,
Bác cung văn cao giọng nhịp tơ đàn.
Bà bà đồng trùm khăn ngồi đảo vội,
Những con hương xoa xuýt xúm kêu van.”
Hình ảnh bác cung văn cất cao giọng hát trong tiếng đàn réo rắt, bà đồng ngồi nhập hồn vào những điệu múa thần bí, và những con hương thành kính xúm lại kêu cầu cho một năm bình an – tất cả tạo nên một không gian linh thiêng, vừa thực vừa huyền ảo. Đây chính là nét văn hóa tâm linh đặc trưng của người Việt, nơi tín ngưỡng dân gian và đạo Phật hòa quyện trong từng câu hát, từng nén nhang thơm.
Nhưng hội chùa không chỉ dành cho những người lớn tuổi, mà còn là nơi trai gái gặp gỡ, giao duyên:
“Ngoài sân chùa trăng tươi tung ánh bạc
Lũ trai tơ rộn rịp lượn vào ra.
Thỉnh thoảng họ lại nam vô lên một loạt
Và cười trêu các ả đến dâng hoa.”
Ánh trăng rằm tỏa sáng như tưới bạc khắp sân chùa, nơi những chàng trai trẻ hối hả đi lại, cất lên những tiếng hò reo rộn ràng. Họ trêu đùa, ghẹo những cô gái mang hoa lễ Phật, những ánh mắt e thẹn, những nụ cười duyên thầm lặng nở ra trong đêm xuân.
Hội Xuân – Sự Hòa Quyện Giữa Đời Và Đạo
Với Đêm rằm tháng Giêng, Anh Thơ không chỉ miêu tả một lễ hội đơn thuần mà còn khắc họa sự hòa quyện giữa hai thế giới: cõi tâm linh và cõi đời thường. Ở đó, con người vừa thành kính hướng Phật, vừa tận hưởng niềm vui hội xuân. Chùa không chỉ là chốn cầu an, mà còn là nơi lưu giữ bao nét đẹp văn hóa dân gian, nơi những nhịp sống hối hả của con người vẫn tiếp diễn dưới bóng từ bi của đức Phật.
Có lẽ, điều khiến bài thơ trở nên đặc biệt chính là cách tác giả đan xen giữa sự trang nghiêm và náo nhiệt, giữa thiêng liêng và trần tục, giữa cái lặng lẽ của những người cầu khấn và cái rộn ràng của những chàng trai cô gái nô đùa dưới trăng. Đó chính là tinh thần của hội xuân Việt Nam – một mùa lễ hội không chỉ để thờ cúng, mà còn để con người hòa mình vào thiên nhiên, vào tình người và cả những ước vọng tươi đẹp cho tương lai.
Và giữa tất cả những âm thanh ấy, ánh trăng vẫn lặng lẽ soi sáng, chứng kiến một đêm rằm tháng Giêng rực rỡ, nơi hồn quê và hồn người cùng hòa làm một.
*
Nhà thơ Anh Thơ – Người vẽ tranh quê bằng thơ
Anh Thơ (1918 – 2005), tên thật là Vương Kiều Ân, là một trong những nữ thi sĩ tiêu biểu của văn học Việt Nam hiện đại. Bà nổi tiếng từ năm 17 tuổi với tập thơ Bức tranh quê, đoạt giải khuyến khích của Tự Lực Văn Đoàn, mở ra một hướng đi riêng trong phong trào Thơ mới: thơ về nông thôn, thiên nhiên Bắc Bộ với những hình ảnh bình dị, đầy chất trữ tình.
Sinh ra trong một gia đình Nho học, cuộc sống kín cổng cao tường đã hun đúc trong bà một tâm hồn nhạy cảm, luôn khát khao tự do. Những câu thơ của Anh Thơ không chỉ vẽ nên bức tranh làng quê thanh bình mà còn phản ánh nỗi niềm sâu lắng của người phụ nữ trước những ràng buộc xã hội.
Sau Cách mạng tháng Tám, bà tham gia Việt Minh, giữ nhiều trọng trách trong Hội Phụ nữ, tiếp tục sáng tác thơ ca ngợi người phụ nữ hậu phương, vẻ đẹp cuộc sống mới và tinh thần đấu tranh anh dũng của dân tộc. Bà là một trong những hội viên đầu tiên của Hội Nhà văn Việt Nam, từng giữ vị trí ủy viên Ban chấp hành Hội.
Với những đóng góp lớn cho văn học, Anh Thơ được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật năm 2007. Những vần thơ của bà vẫn mãi ngân vang, gợi lên trong lòng người đọc tình yêu quê hương tha thiết:
“Quán tranh đứng im lìm trong vắng lặng
Bên chòm xoan hoa tím rụng tơi bời…”
(Chiều xuân)
Viên Ngọc Quý.