Cảm nhận bài thơ: Đi cống – Nguyễn Nhược Pháp

Đi cống

“Lệ cống thì phải chọn nho sĩ, thầy thuốc, thầy bói, thầy toán số và thợ thuyền, mỗi hạng ba người, cùng các đồ sản vật như là sừng tê, ngà voi, đồi mồi, châu báu và các vật lạ.”
(Trần Trọng Kim)


Núi cao, lửa hồng reo chói lọi,
Đổ vàng cây cối um tùm xanh.
Khi loè nắng loá, khi thâm tối,
Sườn non con đường mềm uốn quanh.

Hiu hắt cờ bay tua phơ phất,
Binh lính hò reo gầm bốn phương.
Nón đỏ, bao vàng, chân dậm đất,
Một toán đạp rừng um dẫn đường.

Mặc áo bào xanh, ngồi ngựa trắng,
Sứ nghe nhạc lắc vang bên rừng.
Hai bên hai lọng vàng che nắng.
Giời, mây, trông non nước muôn trùng!

Mười xe bịt đồng, trâu mập kéo,
Bánh sắt khi kề lên sườn non,
Đá đổ ầm ầm như sấm réo,
Gầm nhảy xuống vực sâu kêu ròn.

Trên xe nào mâm vàng dát ngọc,
Châu báu, sừng tê và ngà voi;
Hai pho tượng vàng đỏ đòng đọc;
Bào nạm kim cương, đai đồi mồi.

Binh lính hò quanh hoa giáo mác
– Võ tướng khua đao to lầm lầm –
Hễ thấy đường chênh kề miệng thác,
Bỏ giáo lên xe xoay bánh, vần.

Thầy nho, thầy thuốc bên thầy bói,
Thợ thêu, thợ chạm cùng thợ nề,
Mỗi người đeo một cái khăn gói
Đỏ, buông cương ngựa theo gần xe.

Lúc ấy giời xanh không u ám,
Đầu non không tờ mờ bóng sương,
Làm sao họ âu sầu thảm đạm?
Buồn thay! người cố phận tha hương.

Xe đi mỗi lúc một thêm khó.
Hang thâu hổ đói rên vang lừng;
Những con trăn xám văng như gió,
Quật đuôi đè gẫy bẹp cây rừng.

Sứ bỗng nhìn quanh buồn ủ rũ:
Xa xa ngọn cờ vàng phất phơ!
Vợ con ở chân trời mây phủ,
Hẳn đang nhìn bóng nhạn mong chờ…

Hỡi ai đi thẩn thơ miền núi!
Nhìn ngọn cây xanh gió thổi ào,
Tưởng lại cờ xưa vàng chói lọi,
Nên yêu người cũ hồn trên cao.


10-5-1933

*

Đi Cống – Bi Kịch Của Những Phận Người Lưu Lạc

Bài thơ Đi Cống của Nguyễn Nhược Pháp mở ra một khung cảnh hùng vĩ nhưng cũng đầy nỗi niềm. Những đoàn người lặng lẽ rời quê hương, mang theo những sản vật quý giá để tiến cống triều đình phương Bắc. Trong ánh hào quang của quyền lực và lễ nghi, ẩn sâu là bi kịch của những con người bị cuốn vào guồng quay khắc nghiệt của lịch sử.

Cuộc hành trình không hẹn ngày về

Từ những dòng đầu tiên, Nguyễn Nhược Pháp đã vẽ nên một bức tranh thiên nhiên hoang dã, trùng điệp:

“Núi cao, lửa hồng reo chói lọi,
Đổ vàng cây cối um tùm xanh.
Khi loè nắng loá, khi thâm tối,
Sườn non con đường mềm uốn quanh.”

Thiên nhiên hùng vĩ nhưng không che giấu được sự hiểm nguy, những ngọn núi cao như bức tường cản lối, những con đường uốn lượn như dẫn vào miền vô định. Tất cả báo hiệu một cuộc hành trình gian truân, nơi mà những con người ra đi không biết ngày trở lại.

Hình ảnh đoàn sứ bộ hiện lên giữa núi rừng rộng lớn, những ngọn cờ vàng bay hiu hắt, những tiếng hò reo của binh lính như hòa vào tiếng rừng núi âm vang. Nhưng càng đi sâu vào bài thơ, ta càng nhận ra rằng đây không phải là một chuyến đi vinh quang, mà là một cuộc chia ly đầy nước mắt.

Sản vật quý giá – phận người rẻ mạt

“Trên xe nào mâm vàng dát ngọc,
Châu báu, sừng tê và ngà voi;
Hai pho tượng vàng đỏ đòng đọc;
Bào nạm kim cương, đai đồi mồi.”

Những chiếc xe chở đầy vàng bạc, châu báu, sừng tê, ngà voi – tất cả những gì tinh túy nhất của đất nước đều bị mang đi, như một sự phô trương quyền lực nhưng cũng là dấu ấn của sự thần phục. Nhưng xen lẫn giữa những thứ vô tri ấy lại là những con người – những thầy nho, thầy thuốc, thợ thuyền – cũng trở thành một phần của lễ vật cống nạp.

Họ không phải là những kẻ ra đi tìm vinh hiển, mà là những con người bị buộc phải rời xa quê hương, trở thành món quà dâng lên thiên triều. Một hình ảnh xót xa khi giá trị con người dường như không hơn gì những món vật phẩm vô tri.

Nỗi buồn lưu lạc – xa quê, mất nước, mất cả chính mình

“Làm sao họ âu sầu thảm đạm?
Buồn thay! người cố phận tha hương.”

Giữa khung cảnh không còn sương mờ che phủ, giữa bầu trời xanh trong không u ám, đáng lẽ phải là một hành trình thuận lợi, nhưng lòng người lại trĩu nặng. Vì sao? Vì họ hiểu rằng mình đang đi về một nơi xa lạ, không phải để chinh phục mà để làm kẻ phục tùng. Nỗi đau tha hương không chỉ là nỗi nhớ nhà, mà còn là sự mất mát của chính bản thân – khi con người không còn làm chủ số phận mình.

Hình ảnh viên sứ thần chợt trở nên đơn độc và nhỏ bé giữa không gian rộng lớn:

“Sứ bỗng nhìn quanh buồn ủ rũ:
Xa xa ngọn cờ vàng phất phơ!
Vợ con ở chân trời mây phủ,
Hẳn đang nhìn bóng nhạn mong chờ…”

Một người ra đi, nhưng phía sau là cả một gia đình đợi mong, là những người vợ, người mẹ ngóng trông nơi quê nhà. Chuyến đi không chỉ là sự chia ly tạm thời mà có thể là mãi mãi, bởi bao người đã đi mà không có ngày về.

Tấm lòng tưởng nhớ – liệu có ai còn nhớ người xưa?

Đoạn cuối bài thơ, Nguyễn Nhược Pháp như gửi gắm một lời nhắn nhủ đến thế hệ sau:

“Hỡi ai đi thẩn thơ miền núi!
Nhìn ngọn cây xanh gió thổi ào,
Tưởng lại cờ xưa vàng chói lọi,
Nên yêu người cũ hồn trên cao.”

Những đoàn người xưa đã khuất bóng, những ngọn cờ vàng đã phai màu theo thời gian. Nhưng liệu những thế hệ mai sau, khi đi qua những dãy núi ấy, có còn nhớ đến những con người đã từng bị cuốn vào dòng chảy của lịch sử?

Câu kết không chỉ là một lời nhắc nhở mà còn là một sự tiếc nuối. Nguyễn Nhược Pháp mong rằng, dù thời gian trôi qua, vẫn sẽ có những tấm lòng nhớ đến những người xưa – những con người đã từng hy sinh, đã từng rời xa quê hương trong nỗi buồn biệt ly.

Thông điệp của bài thơ – Lịch sử có những trang không thể lãng quên

Đi Cống không chỉ đơn thuần là một bài thơ tái hiện cảnh cống nạp của thời phong kiến, mà sâu xa hơn, nó là một lời tố cáo về những mất mát mà chiến tranh và sự thần phục ngoại bang đã gây ra cho dân tộc. Những sản vật quý giá bị mang đi, nhưng quý giá hơn chính là những con người cũng bị cuốn vào guồng quay ấy, bị đưa đến một miền đất xa lạ mà không ai biết trước số phận sẽ ra sao.

Bài thơ đặt ra một câu hỏi day dứt: Khi những trang lịch sử khép lại, liệu ai còn nhớ đến những con người ấy? Liệu có ai còn trân trọng những nỗi đau mà họ đã trải qua, hay tất cả rồi cũng sẽ bị chôn vùi theo thời gian?

Và có lẽ, trong lời thơ khắc khoải ấy, Nguyễn Nhược Pháp mong rằng mỗi khi ta nhìn lên những ngọn núi, những cánh rừng, ta sẽ nhớ về họ – những người đã từng ra đi, mang theo cả nỗi đau của một thời đại.

*

Nguyễn Nhược Pháp – Nhà thơ trữ tình tài hoa

Nguyễn Nhược Pháp (1914-1938) là một nhà thơ trữ tình của Việt Nam, được biết đến với phong cách thơ nhẹ nhàng, hóm hỉnh nhưng vẫn thấm đượm chất trữ tình và tinh thần dân tộc. Ông là con trai của học giả, nhà báo, dịch giả Nguyễn Văn Vĩnh – người có nhiều đóng góp quan trọng trong việc truyền bá chữ Quốc ngữ và văn hóa phương Tây vào Việt Nam.

Ngay từ nhỏ, Nguyễn Nhược Pháp đã bộc lộ năng khiếu văn chương. Ông theo học tại Trường Trung học Albert Sarraut, sau đó tiếp tục học tại Trường Cao đẳng Luật và Pháp chính. Bên cạnh việc học, ông còn tham gia viết báo và sáng tác thơ, truyện ngắn, kịch bản.

Năm 1935, tập thơ “Ngày xưa” của ông ra đời, mang đến một làn gió mới cho thi đàn Việt Nam. Các bài thơ như Chùa Hương, Tay Ngà, Sơn Tinh Thủy Tinh đã ghi dấu ấn sâu đậm trong lòng độc giả nhờ lối thơ giản dị, trong sáng, kết hợp giữa chất dân gian và hơi thở hiện đại. Ngoài thơ, ông còn viết kịch, tiêu biểu là vở Người học vẽ (1936).

Cuộc đời Nguyễn Nhược Pháp ngắn ngủi, ông qua đời vì bệnh lao hạch khi mới 24 tuổi. Dù vậy, thơ ông vẫn để lại dấu ấn đặc biệt trong nền văn học Việt Nam, được đánh giá là mang nét duyên dáng riêng biệt, hiền lành và thanh tao.

*

Bạn cũng có thể thích..

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *