Cảm nhận bài thơ: Đường về quê anh – Anh Thơ

Đường về quê anh

 

Qua cầu, em tiến về quê
Một vùng cỏ lác, bốn bề thép gai.
Xe lên, xe xuống dặm dài
Đèo cao, dốc thẳm, suối khơi gập ghềnh.
Nắng chang chang, nắng mông mênh
Không vườn, không bóng một cành cây tươi
Nhà ai, vườn tược của ai
Chỉ đầy sắt thép cháy thui ngút ngàn
Hố bom rồi lại hố bom
Nóng trưa đổ loé mái tôn, dưới cờ.
Trên đường xe lại, xe đưa
Quân về rầm rập, người thưa bộ hành
Gà non vài chú theo chân
Dân về lác đác, khăn rằn vắt vai.

Quê anh hai bảy năm trời
Biết bao máu lửa cho người bâng khuâng!


Qua giới tuyến ngày 21-2-1973

*

Đường Về Quê Anh – Hành Trình Trên Mảnh Đất Cháy

Bài thơ Đường về quê anh của Anh Thơ là một bức tranh chân thực và xót xa về một miền quê sau chiến tranh. Qua từng câu chữ, ta cảm nhận được sự hoang tàn, đổ nát mà bom đạn để lại, nhưng ẩn sâu trong đó là nỗi niềm trăn trở, là sự hy vọng về sự hồi sinh của mảnh đất quê hương.

Bước Chân Trên Đất Cháy

Ngay từ những câu thơ đầu tiên, nhà thơ đã đặt người đọc vào một khung cảnh khắc nghiệt, nơi dấu vết chiến tranh vẫn còn in hằn trên từng tấc đất:

“Qua cầu, em tiến về quê
Một vùng cỏ lác, bốn bề thép gai.”

Không phải là một vùng quê xanh tươi, yên bình như ta thường hình dung, mà thay vào đó là một không gian trơ trụi, đầy thép gai – biểu tượng của chiến tranh, chia cắt và đau thương. Những hình ảnh tiếp nối sau đó càng tô đậm thêm sự khốc liệt:

“Xe lên, xe xuống dặm dài
Đèo cao, dốc thẳm, suối khơi gập ghềnh.”

Con đường về quê không dễ dàng, mà gập ghềnh, chênh vênh như chính hành trình của đất nước đi qua chiến tranh. Không một bóng cây tươi, không một khu vườn tràn trề sức sống, chỉ còn lại “sắt thép cháy thui ngút ngàn”.

Hố bom nối tiếp hố bom, mái tôn nóng bỏng dưới cái nắng chang chang – đó là những dấu tích chiến tranh vẫn chưa kịp phai mờ. Không gian ấy không chỉ là hiện thực của một vùng đất, mà còn là chứng nhân của bao đau thương, mất mát mà nhân dân phải gánh chịu suốt những năm dài.

Dấu Hiệu Của Sự Sống

Giữa khung cảnh hoang tàn ấy, vẫn le lói những hình ảnh của sự sống, của những con người trở về sau chiến tranh:

“Trên đường xe lại, xe đưa
Quân về rầm rập, người thưa bộ hành
Gà non vài chú theo chân
Dân về lác đác, khăn rằn vắt vai.”

Những đoàn xe quân đội rầm rập tiến về, mang theo sức mạnh bảo vệ và xây dựng lại quê hương. Những người dân dù còn thưa thớt, dù khăn rằn vẫn vắt vai – nhưng họ đã trở về, họ đã bước đi trên chính mảnh đất của mình sau những năm dài bị chia cắt. Sự sống vẫn nhen nhóm, vẫn tồn tại, vẫn kiên trì vươn lên từ tro tàn.

Hai Mươi Bảy Năm Máu Lửa

Để có được giây phút trở về này, quê hương anh đã phải trải qua biết bao nhiêu đau thương, mất mát:

“Quê anh hai bảy năm trời
Biết bao máu lửa cho người bâng khuâng!”

Hai mươi bảy năm – một quãng thời gian dài đằng đẵng, với bao nhiêu thế hệ phải sống trong cảnh chia ly, bom đạn. Sự bâng khuâng ở đây không chỉ là tâm trạng của người đi trên con đường ấy, mà còn là nỗi lòng của cả một dân tộc, của những người đã chứng kiến và trải qua những năm tháng chiến tranh tàn khốc.

Lời Kết

Đường về quê anh không chỉ là một bài thơ miêu tả lại cảnh vật hoang tàn sau chiến tranh, mà còn là một lời nhắc nhở sâu sắc về những gì đã mất mát, những gì đã phải đánh đổi để có được hòa bình. Giữa những vết thương chiến tranh vẫn còn đó, con người vẫn đang trở về, vẫn đang hồi sinh mảnh đất quê hương.

Bài thơ không chỉ là một lời kể, mà còn là một nỗi niềm – một nỗi niềm vừa đau thương, vừa hy vọng, vừa trăn trở trước những gì đã qua và những gì đang chờ đợi phía trước. Và dù chiến tranh đã lùi xa, con đường ấy vẫn sẽ mãi là một chứng tích, nhắc nhở mỗi chúng ta về giá trị của hòa bình, của sự sống, của quê hương yêu dấu.

*

Nhà thơ Anh Thơ – Người vẽ tranh quê bằng thơ

Anh Thơ (1918 – 2005), tên thật là Vương Kiều Ân, là một trong những nữ thi sĩ tiêu biểu của văn học Việt Nam hiện đại. Bà nổi tiếng từ năm 17 tuổi với tập thơ Bức tranh quê, đoạt giải khuyến khích của Tự Lực Văn Đoàn, mở ra một hướng đi riêng trong phong trào Thơ mới: thơ về nông thôn, thiên nhiên Bắc Bộ với những hình ảnh bình dị, đầy chất trữ tình.

Sinh ra trong một gia đình Nho học, cuộc sống kín cổng cao tường đã hun đúc trong bà một tâm hồn nhạy cảm, luôn khát khao tự do. Những câu thơ của Anh Thơ không chỉ vẽ nên bức tranh làng quê thanh bình mà còn phản ánh nỗi niềm sâu lắng của người phụ nữ trước những ràng buộc xã hội.

Sau Cách mạng tháng Tám, bà tham gia Việt Minh, giữ nhiều trọng trách trong Hội Phụ nữ, tiếp tục sáng tác thơ ca ngợi người phụ nữ hậu phương, vẻ đẹp cuộc sống mới và tinh thần đấu tranh anh dũng của dân tộc. Bà là một trong những hội viên đầu tiên của Hội Nhà văn Việt Nam, từng giữ vị trí ủy viên Ban chấp hành Hội.

Với những đóng góp lớn cho văn học, Anh Thơ được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật năm 2007. Những vần thơ của bà vẫn mãi ngân vang, gợi lên trong lòng người đọc tình yêu quê hương tha thiết:

“Quán tranh đứng im lìm trong vắng lặng
Bên chòm xoan hoa tím rụng tơi bời…”
(Chiều xuân)

Viên Ngọc Quý.

Bạn cũng có thể thích..

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *