Duy tân
Đường kiến trúc nhịp nhàng theo điệu mới
Của lời thơ lóng đẹp. Hạt châu trong
Hạt châu trong ngời nhỏ giọt vô lòng
Tràn âm hưởng như chiều thu sóng nắng.
Trong vòm xanh. Màu cưới màu, bình lặng,
Gây phương phi: chiếu sáng ngả sang mờ
Vì hình dung những sắc mát, non, tơ,
Như mặt trời mọc qua khóm liễu, một
Hoàng hôn. Ôi đàn môi, chim báu tới:
Chữ biến hình ảnh mới, lúc trong ngâm
Chữ điêu khắc, tỉa nghệ thuật sầu câm,
Đầy thẩm mỹ như một pho thần tượng.
Lúc trong ngâm, giữa kho vàng mộng tưởng,
Múa song song khiêu vũ dưới đêm hồng
(Những con cừu tim trẻ mướt như lông
Nên da thịt lên làn sa lụa mỏng,
Mỗi con cừu bốc lên men hy vọng…)
Thơ nhịp nhàng ý nhị nhịp theo Thơ.
Tôi cắn vào trái bổ vỏ xanh mơ
Tìm chất quý thơm tinh mùi khoái lạc
Bằng hơi mộng, trong hàm răng, tản mác
Mộng?
Thiên tài?
Trên hỗn độn khoả thân
Đẹp tỉ mỉ, hỡi Rung động truyền thần
Ròng âm nhạc của lòng trai ấp mái
Người hoạ điệu với thiên nhiên, ân ái
Buồn, và xanh trờị (Tôi trôi với bờ
Êm biếc – khóc với thu: lời úa ngô
Vàng… khi cách biệt – giữa hồn xây mộ –
Tình hôm qua – dài hôm nay thương nhớ,
Im lặng nhìn bông ý, lặng lờ lên
Những dáng hình thanh khí…) Giữa mông mênh,
Đường nhiếp ảnh, sắc khua màu – Tiếng thở
Hỡi hội hoạ, đến muôn đời nức nở.
Ta nhịp nhàng ý nhị nhịp theo ta
Lời nối lời bố thí lộc Tinh hoa
Của Âm điệu, mơ màng run lẩy bẩy
Một hỗn hợp đẹp xô bồ say dậy
Bằng cảm tình, bằng hình ảnh yêu thương
Và mới mẻ – trên viễn cổ Đông phương!
(Ai có nghe sức tiềm tàng bí mật?)
Thơ loã thể! – Giai nhân tuần trăng mật,
Nữ thần ơi! Ta nô lệ bên người!
*
“Duy Tân – Khi Thơ Ca Lột Xác”
Bích Khê là thi sĩ của cái đẹp. Nhưng cái đẹp trong thơ ông không chỉ dừng lại ở những gì quen thuộc, mà còn là sự tìm kiếm, đổi mới và sáng tạo không ngừng. “Duy tân” chính là tuyên ngôn nghệ thuật của ông – một cuộc cách tân mạnh mẽ trong thơ ca, nơi ngôn từ không còn đơn thuần là phương tiện diễn đạt, mà trở thành nhạc, thành họa, thành điêu khắc sống động.
Ngay từ những câu thơ đầu, Bích Khê đã khẳng định:
“Đường kiến trúc nhịp nhàng theo điệu mới
Của lời thơ lóng đẹp. Hạt châu trong”
Thơ ca với ông không chỉ là những vần điệu đơn thuần mà phải đạt đến sự hoàn mỹ như một công trình kiến trúc, như những “hạt châu trong” long lanh, rực rỡ. Hình ảnh thơ không còn là sự sao chép thực tại mà đã được tinh luyện, mài giũa đến mức trở thành biểu tượng, ánh lên vẻ đẹp siêu thoát.
Những câu thơ tiếp theo mở ra một không gian hội họa, nơi sắc màu hòa quyện vào nhau, tạo nên một bức tranh đầy tính nghệ thuật:
“Trong vòm xanh. Màu cưới màu, bình lặng,
Gây phương phi: chiếu sáng ngả sang mờ
Vì hình dung những sắc mát, non, tơ,
Như mặt trời mọc qua khóm liễu, một
Hoàng hôn.”
Màu sắc trong thơ Bích Khê không tĩnh tại, mà chuyển động, tan chảy, biến hóa. Mặt trời mọc nhưng lại được ví như một hoàng hôn – một nghịch lý đầy chất tượng trưng, nơi cái mới và cái cũ giao thoa, nơi thơ ca và hội họa hòa quyện làm một.
Nhưng “Duy tân” không chỉ là cách tân về hình thức mà còn là sự thay đổi tận gốc rễ trong tư duy sáng tạo. Bích Khê không ngại phá vỡ những giới hạn cũ, để thơ có thể “loã thể”, để nghệ thuật trở thành một thực thể sống động, quyến rũ như một giai nhân trong tuần trăng mật:
“Thơ loã thể! – Giai nhân tuần trăng mật,
Nữ thần ơi! Ta nô lệ bên người!”
Trong sự thăng hoa của sáng tạo, thi nhân không còn là chủ thể kiểm soát nghệ thuật, mà chính nghệ thuật đã chinh phục ông, biến ông thành “nô lệ” – một kẻ si mê, tận hiến cho cái đẹp. Đó là sự tự nguyện dấn thân, là khát khao được hòa làm một với sáng tạo, với cái mới, với cảm hứng vĩnh hằng.
“Duy tân” không chỉ là một bài thơ, mà còn là một tuyên ngôn nghệ thuật đầy mạnh mẽ của Bích Khê. Trong đó, thơ ca không còn bị bó buộc trong những khuôn mẫu cũ, mà vươn lên thành một bản giao hưởng của sắc màu, thanh âm, nhịp điệu. Ông đã đặt thơ ca lên bàn cân của hội họa, âm nhạc, điêu khắc, để rồi biến nó thành một thực thể có linh hồn, có sự sống, có cảm xúc mãnh liệt.
Và trên hành trình ấy, người thi sĩ say sưa trong cơn lốc của cách tân, của sáng tạo không ngừng, để mỗi vần thơ cất lên như một tiếng thở, một nhịp đập, một khúc ca bất tận của cái đẹp.
*
Bích Khê – Thi sĩ tài hoa của nền thơ hiện đại Việt Nam
Bích Khê (1916 – 1946), tên thật là Lê Quang Lương, là một nhà thơ tiêu biểu của phong trào Thơ Mới Việt Nam. Ông sinh ra trong một gia đình nho học yêu nước tại Quảng Ngãi. Từ nhỏ, ông đã bộc lộ năng khiếu thi ca với thơ Đường luật và ca trù. Tuy nhiên, bước ngoặt trong sáng tác của ông đến từ sự ảnh hưởng của Hàn Mặc Tử, khi ông chuyển sang thể thơ mới với phong cách tượng trưng và siêu thực.
Tác phẩm nổi bật nhất của Bích Khê là Tinh Huyết (1939), được xem như một hiện tượng trong nền thơ Việt Nam thời bấy giờ. Thơ ông giàu chất nhạc, hình tượng táo bạo, kết hợp giữa cảm xúc mãnh liệt và sự tìm tòi đổi mới. Hoài Thanh từng nhận xét rằng ông có những câu thơ hay nhất Việt Nam, còn Hàn Mặc Tử ca ngợi thơ ông như “đóa hoa thần dị”.
Mắc bệnh phổi từ sớm, cuộc đời Bích Khê đầy bi kịch nhưng cũng để lại dấu ấn sâu sắc. Ông qua đời năm 1946 khi mới 30 tuổi, để lại một di sản thơ ca độc đáo, góp phần làm phong phú nền thi ca Việt Nam.
Viên Ngọc Quý