Em đi hội về
Đại hội nhà văn tưng bừng cả nước
Lớp lớp tươi vui tràn ngập hội trường
Người già nhất tuổi gần thế kỷ
Những nàng thơ tha thướt giữa hoa hương!
Các bạn nghiêng mình trước vành khăn em tang anh!
Tay bắt mặt mừng, nhưng không dấu niềm thương tiếc
Nhiều bạn xót em sống trong đơn chiếc
An ủi yêu thương: “Đau khổ mới nên vần!”
Ôi! Sao em lại đi chọn kiếp thi nhân?
Để cô đơn mới thành sự nghiệp!
Tan hội về, nến thờ buồn leo lét…
Còn anh đâu mà kể chuyện hội nhà văn?
Ngày 11-3-1995
*
“Em đi hội về – Khi niềm vui chỉ còn là khoảng trống”
Bài thơ Em đi hội về của nhà thơ Anh Thơ không chỉ là những dòng ký sự về một kỳ Đại hội Nhà văn đầy sôi động, mà còn là lời tự vấn day dứt về thân phận của một người nghệ sĩ – kẻ đi tìm cái đẹp trong cô đơn, kẻ ôm trọn nỗi buồn để chắt chiu thành những vần thơ.
Rực rỡ ngày hội – Nhưng lòng em vẫn u hoài
“Đại hội nhà văn tưng bừng cả nước
Lớp lớp tươi vui tràn ngập hội trường
Người già nhất tuổi gần thế kỷ
Những nàng thơ tha thướt giữa hoa hương!”
Khung cảnh ngày hội hiện lên với tất cả sự rộn ràng và tươi sáng. Đây là dịp hội ngộ của những người làm văn chương từ khắp mọi miền đất nước, nơi niềm đam mê chữ nghĩa được lan tỏa trong bầu không khí hân hoan. Những mái đầu đã bạc, những nàng thơ duyên dáng – tất cả tạo nên một bức tranh tràn đầy sức sống.
Nhưng giữa bức tranh ấy, một hình ảnh lặng lẽ hiện lên: người phụ nữ với chiếc khăn tang trắng – dấu tích của mất mát, của nỗi đau không thể nguôi ngoai.
Sự đơn độc của một nhà thơ
“Các bạn nghiêng mình trước vành khăn em tang anh!
Tay bắt mặt mừng, nhưng không dấu niềm thương tiếc
Nhiều bạn xót em sống trong đơn chiếc
An ủi yêu thương: “Đau khổ mới nên vần!””
Tình bạn văn chương nồng hậu là thế, nhưng dường như chẳng thể khỏa lấp được nỗi trống vắng trong lòng nhà thơ. Lời an ủi “Đau khổ mới nên vần!” vang lên như một sự thật nghiệt ngã: phải chăng số phận nhà thơ luôn gắn liền với cô đơn và mất mát? Phải chăng chỉ có đi qua những khổ đau thì câu chữ mới chạm đến được tận cùng của nhân sinh?
Nhưng ngay cả khi thơ ca được sinh ra từ đau thương, liệu có thể làm nguôi ngoai một trái tim đã mất đi điểm tựa?
Tan hội về – chỉ còn lại ngọn nến leo lét
“Ôi! Sao em lại đi chọn kiếp thi nhân?
Để cô đơn mới thành sự nghiệp!
Tan hội về, nến thờ buồn leo lét…
Còn anh đâu mà kể chuyện hội nhà văn?”
Câu hỏi như một lời than thở, như một tiếng lòng oán trách chính bản thân mình. Chọn nghiệp văn chương là chọn con đường cô đơn – con đường mà càng đi xa, người ta càng cảm nhận rõ hơn sự trống vắng trong tâm hồn.
Ngày hội đã qua, những tiếng cười nói, những cái bắt tay chào nhau giờ chỉ còn là ký ức. Trở về nhà, trước bàn thờ người chồng quá cố, chỉ còn ngọn nến leo lét buồn bã. Câu chuyện về đại hội văn chương, những điều muốn sẻ chia giờ đây cũng không còn ai để lắng nghe.
Thông điệp của bài thơ
Em đi hội về không chỉ là nỗi buồn của một người vợ mất chồng, mà còn là tiếng lòng của một nhà thơ trước sự cô đơn mà nghiệp viết mang lại. Nhà văn, nhà thơ – những người mang sứ mệnh chạm đến trái tim người đọc – đôi khi lại là những kẻ đơn độc nhất trong thế giới của mình.
Bài thơ cũng như một lời nhắc nhở về sự hiện hữu mong manh của hạnh phúc. Khi còn có nhau, hãy trân trọng từng khoảnh khắc, hãy lắng nghe nhau, hãy sẻ chia – bởi một khi mất đi rồi, dù có bao nhiêu câu thơ, bao nhiêu lời văn cũng không thể lấp đầy khoảng trống trong tâm hồn.
*
Nhà thơ Anh Thơ – Người vẽ tranh quê bằng thơ
Anh Thơ (1918 – 2005), tên thật là Vương Kiều Ân, là một trong những nữ thi sĩ tiêu biểu của văn học Việt Nam hiện đại. Bà nổi tiếng từ năm 17 tuổi với tập thơ Bức tranh quê, đoạt giải khuyến khích của Tự Lực Văn Đoàn, mở ra một hướng đi riêng trong phong trào Thơ mới: thơ về nông thôn, thiên nhiên Bắc Bộ với những hình ảnh bình dị, đầy chất trữ tình.
Sinh ra trong một gia đình Nho học, cuộc sống kín cổng cao tường đã hun đúc trong bà một tâm hồn nhạy cảm, luôn khát khao tự do. Những câu thơ của Anh Thơ không chỉ vẽ nên bức tranh làng quê thanh bình mà còn phản ánh nỗi niềm sâu lắng của người phụ nữ trước những ràng buộc xã hội.
Sau Cách mạng tháng Tám, bà tham gia Việt Minh, giữ nhiều trọng trách trong Hội Phụ nữ, tiếp tục sáng tác thơ ca ngợi người phụ nữ hậu phương, vẻ đẹp cuộc sống mới và tinh thần đấu tranh anh dũng của dân tộc. Bà là một trong những hội viên đầu tiên của Hội Nhà văn Việt Nam, từng giữ vị trí ủy viên Ban chấp hành Hội.
Với những đóng góp lớn cho văn học, Anh Thơ được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật năm 2007. Những vần thơ của bà vẫn mãi ngân vang, gợi lên trong lòng người đọc tình yêu quê hương tha thiết:
“Quán tranh đứng im lìm trong vắng lặng
Bên chòm xoan hoa tím rụng tơi bời…”
(Chiều xuân)
Viên Ngọc Quý.