Cảm nhận bài thơ: Em Ứng

Em Ứng

 

Em Ứng đi trong trí nhớ tôi,
Ôi em trai trẻ mắt yêu đời,
Bước dài, vai rộng, nhanh câu nói,
Răng đẹp tươi hoa, nhớ nụ cười.

Ở nhà, ba má gọi “thằng Phương”,
Chợ nhỏ bên kênh quán thủ thường;
Lên học Mỹ Tho hằng nhất lớp,
Nghèo nên chăm học, Ứng là gương.

Ứng ham đá bóng, ưa xoài tượng,
Đi guốc đơn sơ, tính rất hiền.
Từ lúc vào Nam tôi gặp Ứng,
Bốn năm tình nghĩa kết anh em.

Sách hay những lúc kề nhau đọc,
Một nớp nhiều khi hai bạn chui.
Ứng nó chí tình dù kém tuổi,
Ngày tôi về Bắc, viết thư hoài.

Kháng chiến anh trên rừng Việt Bắc,
Khu Đ em cũng ở bưng biền.
Có vợ, một con, em khoẻ mạnh,
Ứng là cán bộ của thanh niên.

Rồi một hôm kia, bỗng tối trời!
Tin ra: Mỹ Diệm giết em rồi.
Giết ba mươi tuổi đang tràn sức,
Giết ở miền Nam Ứng của tôi!

Chúng giết một người đang tiến bước,
Cổ em đang hát – máu ào ra!
Không buộc được chân, nên chúng giết
Một tương lai đang độ sáng loà.

Em Ứng đi trong trí nhớ anh,
Bức thư em gửi lúc Hoà bình
Còn đây nét chữ tươi roi rói
Như thấy em cười, em bước nhanh.

Thù tới kề bên, chẳng phải xa,
Thù trong máu thịt đứa em ta!
Thù vung những cánh tay lông lá
Đạn nhắm tim tôi bắn thẳng mà!

Con của Ứng bây giờ ai nuôi?
– Ứng ơi! đã chuyển sức muôn người,
Đã gầm bão táp tung bay đá
Trên khắp miền Nam đó, Ứng ơi!


22-5-1962

*

Em Ứng – Một Cuộc Đời Đẹp Và Một Khát Vọng Không Tắt

Có những con người, dù chỉ xuất hiện trong cuộc đời ta một khoảng thời gian ngắn ngủi, nhưng hình bóng họ lại vĩnh viễn in sâu vào tâm trí, trở thành một phần ký ức không thể phai mờ. Em Ứng của Xuân Diệu là một bài thơ như vậy – một bài thơ không chỉ là lời thương tiếc, mà còn là sự phẫn uất, một nỗi đau hoá thành quyết tâm. Qua từng vần thơ, Xuân Diệu không chỉ kể về một con người mà còn vẽ nên bức tranh của một thế hệ thanh niên miền Nam yêu nước, sẵn sàng dấn thân vì lý tưởng, nhưng bị tước đoạt đi tuổi trẻ trong những năm tháng khốc liệt.

Ứng – Một Tuổi Trẻ Đầy Sức Sống

Ứng hiện lên trong ký ức của tác giả không chỉ là một người em thân thiết, mà còn là biểu tượng của một tuổi trẻ hồn nhiên, tràn đầy nghị lực và ý chí:

Em Ứng đi trong trí nhớ tôi,
Ôi em trai trẻ mắt yêu đời,
Bước dài, vai rộng, nhanh câu nói,
Răng đẹp tươi hoa, nhớ nụ cười.

Hình ảnh Ứng là một chàng trai khoẻ khoắn, tràn đầy năng lượng với “bước dài, vai rộng”, với sự lạc quan trong nụ cười. Đó là một người có trí tuệ, có ý chí vươn lên:

Ở nhà, ba má gọi “thằng Phương”,
Chợ nhỏ bên kênh quán thủ thường;
Lên học Mỹ Tho hằng nhất lớp,
Nghèo nên chăm học, Ứng là gương.

Ứng không chỉ chăm chỉ học hành mà còn là một người bạn chân thành, gắn bó với tác giả:

Sách hay những lúc kề nhau đọc,
Một nớp nhiều khi hai bạn chui.

Những ngày tháng đó, Ứng không chỉ là một người em, mà còn là một người đồng hành, một người bạn tâm giao.

Những Năm Tháng Kháng Chiến Và Tin Dữ Bất Ngờ

Rồi thời cuộc đẩy hai người vào những ngã rẽ khác nhau. Xuân Diệu ở miền Bắc, còn Ứng dấn thân vào kháng chiến ở miền Nam:

Kháng chiến anh trên rừng Việt Bắc,
Khu Đ em cũng ở bưng biền.

Ứng không chỉ là một chàng trai có lý tưởng mà còn là một người chồng, người cha, là cán bộ thanh niên, tiếp tục sống với tinh thần cống hiến. Nhưng rồi, bi kịch ập đến:

Rồi một hôm kia, bỗng tối trời!
Tin ra: Mỹ Diệm giết em rồi.

Ứng bị giết khi đang ở độ tuổi đẹp nhất của đời người. Một chàng trai đang tràn đầy hoài bão, một người lính đang trên đường cống hiến, bỗng nhiên bị tước đoạt đi tất cả:

Giết ba mươi tuổi đang tràn sức,
Giết ở miền Nam Ứng của tôi!

Hình ảnh Ứng không chỉ còn là một con người, mà trở thành một biểu tượng, một nỗi đau chung của cả dân tộc.

Nỗi Đau Hóa Thành Thù Hận Và Ý Chí Đấu Tranh

Cái chết của Ứng không chỉ là mất mát cá nhân của tác giả, mà còn là minh chứng cho tội ác của chế độ tay sai Mỹ – Diệm:

Chúng giết một người đang tiến bước,
Cổ em đang hát – máu ào ra!

Ứng không bị giết khi đang cầm súng, mà bị giết khi vẫn đang là một con người mang trong mình những hoài bão, những khát vọng. Chúng giết không chỉ một con người, mà là cả một tương lai, một niềm tin sáng loà:

Không buộc được chân, nên chúng giết
Một tương lai đang độ sáng loà.

Và từ nỗi đau, từ uất hận, bài thơ dâng trào lên thành lời thề quyết chiến:

Thù tới kề bên, chẳng phải xa,
Thù trong máu thịt đứa em ta!

Xuân Diệu không chỉ khóc thương Ứng, mà còn biến nỗi đau ấy thành động lực đấu tranh, biến nước mắt thành ý chí quyết tâm.

Lời Gọi Hướng Về Tương Lai

Nhưng bài thơ không kết thúc bằng bi kịch. Xuân Diệu không để nỗi đau chìm vào tuyệt vọng, mà chuyển nó thành một niềm tin, một sự tiếp nối:

Con của Ứng bây giờ ai nuôi?

– Ứng ơi! đã chuyển sức muôn người,

Ứng ra đi, nhưng tinh thần Ứng vẫn còn. Nó lan tỏa trong hàng triệu con người, trong sức mạnh của cả dân tộc. Những cơn bão táp cách mạng sẽ quét sạch những kẻ đã gây ra bao tội ác:

Đã gầm bão táp tung bay đá
Trên khắp miền Nam đó, Ứng ơi!

Ứng không còn, nhưng cái chết của Ứng không phải là sự chấm dứt, mà là sự khởi đầu cho một cuộc đấu tranh lớn hơn, một cuộc đấu tranh sẽ mang lại công bằng, mang lại tương lai mà Ứng đã từng mơ ước.

Lời Kết

Bài thơ Em Ứng không chỉ là một bài thơ tưởng niệm, mà còn là một bản cáo trạng đanh thép, một tiếng kêu uất nghẹn, và hơn hết, là một lời nhắc nhở về những gì đã qua.

Ứng – một chàng trai trẻ với đôi mắt yêu đời, với những hoài bão chưa kịp thực hiện, đã bị chiến tranh cướp đi. Nhưng Ứng không thực sự chết, vì tinh thần của anh đã hoà vào lịch sử, đã trở thành một phần của cuộc đấu tranh kiên cường của dân tộc.

Xuân Diệu không chỉ khóc thương một người em, mà còn biến nỗi đau ấy thành sức mạnh, thành ý chí chiến đấu. Em Ứng vì thế không phải là một bài thơ bi lụy, mà là một bài thơ truyền lửa, một bài thơ của lòng quyết tâm.

Ứng đã ra đi, nhưng tinh thần của anh vẫn còn mãi. Và trên khắp miền Nam, trên từng tấc đất quê hương, vẫn còn vang vọng tiếng gọi:

Trên khắp miền Nam đó, Ứng ơi!

*

Xuân Diệu – “Ông hoàng thơ tình” của văn học Việt Nam

Xuân Diệu (1916–1985), tên khai sinh là Ngô Xuân Diệu, là một trong những nhà thơ xuất sắc nhất của nền văn học hiện đại Việt Nam. Với phong cách sáng tác độc đáo, giàu cảm xúc và khát vọng yêu đời mãnh liệt, ông đã để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng bao thế hệ độc giả.

Sinh ra tại Hà Tĩnh nhưng lớn lên ở Quy Nhơn, Bình Định, Xuân Diệu sớm bộc lộ niềm đam mê văn chương. Ông là gương mặt tiêu biểu của phong trào Thơ Mới, mang đến một luồng sinh khí mới cho thi ca Việt Nam. Những tác phẩm như Thơ thơ (1938) hay Gửi hương cho gió (1945) thể hiện rõ nét giọng điệu sôi nổi, táo bạo, chan chứa tình yêu và khát khao tận hưởng vẻ đẹp cuộc sống.

Sau năm 1945, Xuân Diệu chuyển hướng sáng tác, hòa mình vào dòng chảy cách mạng, ca ngợi quê hương, đất nước và con người lao động. Dù ở giai đoạn nào, thơ ông vẫn giữ nguyên vẹn sự say mê và rung động sâu sắc. Những tác phẩm như Riêng chung (1960) hay Hai đợt sóng (1967) tiếp tục khẳng định vị trí của ông trên thi đàn.

Không chỉ là nhà thơ, Xuân Diệu còn là nhà văn, nhà phê bình có ảnh hưởng lớn. Năm 1996, ông được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật, ghi nhận những đóng góp to lớn của mình.

Xuân Diệu vẫn mãi là biểu tượng của thơ tình Việt Nam, là tiếng nói tha thiết của một tâm hồn luôn khát khao yêu và sống trọn vẹn từng khoảnh khắc:

“Hãy tận hưởng ngày giờ đang thở,
Và yêu đời, hãy sống mạnh hơn tôi.”

Viên Ngọc Quý

Bạn có thể chia sẻ bài viết qua:

Bạn cũng có thể thích..

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *