Cảm nhận bài thơ: Giặc Mỹ – Nguyễn Khoa Điềm

Giặc Mỹ

 

Khi tên lính Pháp cuối cùng đi đến trước dòng sông
Vươn qua thành cầu soi mặt mình dưới nước
Nó bỗng nhổ nước bọt vào nơi nó vừa ngắm được
Khuôn mặt chủ nghĩa thực dân cũ tan rồi trên sông nước quê ta
Tên lính Pháp quay đi
Tên lính Mỹ vào ngay…

Tên lính Mỹ ấy
Là Giếch, là Giôn, là Tôm là Uých
Tóc vàng, tóc nâu, da màu hay da trắng
Nó ở Uýt-xcôn-xin, Mát-xa-xu-xít hay Flô-ri-đa
Nó ăn khẩu phần C hay khẩu phần A
Nó gọi Vi-xy thay cho người Việt Nam hay Hin-tơn thay cho Hà Nội
Nó giết người, quăng bom, hít hê-rô-in, rửa tội
Nó có bà biểu tình trong chiến dịch mùa thu
Những điều ấy không phải nhiều dấu hỏi
Khi lịch sử trao ta quyển lên tiếng nói
Thì lịch sử cũng không quên soi tỏ mỗi con người…

Phút này đây, ta gọi nó cho người?
– Là tờ giấy! Vâng! chỉ là tờ giấy
Một tờ giấy trong bảy nghìn tờ máu vấy
Một chữ đen trong hai triệu rưỡi chữ mù đen
Ngũ giác đài ghi tên nó trong đêm
Lịch sử nó đen bầm vì tội ác
Rồi giấu kín. Rồi phết sơn loè loẹt
Nó bước ra với kèn súng dàn chào
Nó đốt nhà ư? – Tổng thống sẽ khen rao
Nó hãm hiếp ư? – Có Xpen-man làm dấu

Nó giết người ư? – Có tượng thần tự do chùi máu
Nó khai quang ư? – Có Xten-bếch véo von
Nó là đứa con cưng của bọn lái súng, buôn vàng
Những lý thuyết hận thù, những tín điều thuốc độc
Nó, chính là chữ cái, chữ con, trang nhỏ, trang to, trong “Hồ sơ bí mật”
Bẩn thỉu trần truồng trước nhân loại hôm nay…

*

Không ở đâu bằng đất nước Việt Nam này
Nơi nhân loại thêm một lần nhìn thấy
Những tội ác con người đã đi qua bỗng hồi sinh trở lại
Như những tầng diếp thạch vỡ ùa ra múa vuốt liếm môi
Rồi những Khan Tác-ta bỗng bước ra từ bão cát
Rồi những cuộc Thập tự chinh với đầu người trên mũi mác
Rùng rùng đi tàn phá nước non này

Những bạo chúa tự hào lối đánh bánh xe quay?
Giờ đã có trực thăng treo người vào không khí
Xưa giết người bằng voi, bằng dao, bằng rìu, cũ kỹ!
Nay giết người bằng hóa chất, điện tử, phô-tông
Xưa quan lại đánh ta bằng đầu gậy bịt đông
Nay chúng ta quật bằng cao su độn sắt
Quật chết người mà vẫn không hề tái mặt
Vì giết người máu chẳng dính tay chân
Xưa chúng âm u mở toà án giảo hình
Bắt trí tuệ đến đây quỳ xuống gối
Nay “Sám hối” vẫn tràn đầy ánh sáng
Điện một nghìn oát xoay chiều vào cốt lõi thần kinh
Chuồng cọp của lãnh chúa xưa đáng gọi hôi tanh
Nay miệng những thắng ác ôn đã tanh ngòm gan với máu
Xưa “Luật cọ về” là vinh hoa sáng tạo
Nay thú tính, dâm ô thành lý thuyết tôn thờ
Xưa một người chỉ đâm chết một người
Nay một cái bấm nút, một cái đạp càn của bom Mỹ giết ta hàng chục hàng trăm ngọn xớt
Xưa đinh đóng bằng tay, nay đinh đóng bằng bom rốc két
Mặt thằng giặc lái giết người vẫn có dáng ngắm trăng sao
Xưa khủng bố dân, chúng đem ta ra giữa chợ chặt đầu
Nay hiện đại, vô tuyến truyền hình sẽ đưa vào bữa cơm chiều nhân loại
Để loài người vừa ăn vừa xem máu vãi
Dần rà quen cái chết tựa cơm ăn
Quen lối giết người, quen mặt xâm lăng
Quen kinh sợ, quen vục đầu trong vật chất!

Không ở đâu trí tuệ bị gọi nhầm tên kỳ quặc
Bằng những mưu đồ của Giôn-xơn, Ních-xơn
Mượn những công trình của máy tính, vi phân
Chúng phân tích máu xương ta thành tỷ lệ
Uốn công lý quăn queo làm thước kẻ
Rồi viết lên những định luật Việt Nam
Làm tiền để cho sự tàn bạo thế gian
Chúng công bố:
Để phá năm tân thóc của Việt cộng phải phá năm mươi tấn thóc của dân chúng
Ngược lại: phải giết năm trăm dân Mỹ lai để đừng sót một tên Việt cộng
Để khuất phục một dân tộc trong mười năm “thời kỳ Việt Nam” phải dám đẩy lùi dân tộc ấy về đổ đá ngàn năm.
Vì một cuộc hành quân phải huỷ diệt hàng vạn mẫu cây rừng
Vì một đòn pháo kích ở Plây-cu phải trả đũa xuống sông Hồng Hà Nội
Vì một thành phố Mỹ Tho cần cứu nguy phải hạ sát ngay thành phố ấy
Vì sự tồn vong của học thuyết màu da, phải đầu cơ hàng vạn xác da vàng
Vì một tên bù nhìn, nửa triệu lính Mỹ phải đem sang
Vì lợi ích của bốn trăm ông vua, hai trăm triệu người Mỹ phải góp tiền góp máu
Vì tinh thần một tên lính Mỹ phải nói có hai ngàn Việt cộng bị giết mỗi tuần trên mặt báo.(thiếu chứng nào thì moi cốt, giết vào dân!)
Vì quyền giết người Việt Nam phải giết bốn sinh viên Mỹ ở Ken
Vì Tổng thống, phải xích tay hàng vạn người biểu tình nổi loạn
Vì và phải…cái tương quan độc đoán
Các mệnh đề, cái lô-gích cuồng điên
Các tỷ lệ ném ra bất chấp cán cân
Chỉ cần sự bảo chứng của đô-la và súng máy
Cùng cái đầutối tăm của Giôn-xơn, Ních–xơn đặt vào trên đấy!
Không ở đâu con người trước con người
Thành “chó dại”, “Trâu điên” và “đỉa đói”
Điều kinh tởm, chúng vẫn mượn tiếng người để nói
(vẫn phải “nói” với ta vì ta vẫn là người)
Thú tính gầm lên trong chữ nghĩa, câu lời:
– “Tao đánh cho mày tuyệt đường sinh nở!”
– “Tao moi gan mày thử xem to hay nhỏ!”
– “Tao móc mắt mày để đừng trừng mắt với tao!”
– “Tao đập vỡ óc mày xem tư tưởng Việt cộng ra sao!”
– “Tao phá sự tiết trinh của mày để mày đừng mơ với mộng!”
– “Tao giết con mày để xem mày thương con hay Việt cộng!”
– “Tao vạt râu thằng già này vì nó dám bằng tuổi cha tao!”
Chúng đánh để ta không tìm được chiều cao
Của thân thể, của ước mơ, hạnh phúc
Chúng đánh ta bật rễ ngoài mặt đất
Hết cầm cày, cầm búa, dắt trẻ, yêu thương
Chúng đánh ta tê liệt những phản ứng bình thường.
Vui với con người, buồn khi nắng xuống
Chúng đánh ta trụy hết những bào thai truyền thống
Từng đẻ ra nhân nghĩa, anh hùng Nguyễn Trãi, Nguyễn Du…
Chúng đánh để ta khắc nghiệt trước cái hôn Ju-li-ét – Rô-mê-ô
Không bén mảng những cánh rừng của Ang-đéc-xen, những bãi biển Ta-go nhìn bầy con trẻ
Chúng đánh cho cả dân tộc ta biến hình thành sứa
Trôi bập bềnh theo cuồng lưu của chủ nghĩa thực dân
Và trên nền đau của thế kỷ bị xâm lăng
Chúng biểu diễn cuộc đời ta thành véc-xơ, đồ thị
Bằng chính máu chúng ta nhằm chứng minh hiệu năng vũ khí!
Tên Mỹ kia! mày bị căm ghét đời đời
Mày không giết nổi ta, cũng như không giết nổi sự khinh miệt của loài người.
Không giết nổi sự dày vò sẽ di truyền trong huyết hệ
Của chính mày. Vào những năm 60, 70 thế kỷ
Mà đến Việt Nam.Và đánh mất ở đây tất cả những giá trị cao quý của con người
Đánh mất Lin-côn, Giép-phốc-xơn, Hê-minh-uê… trong những bãi B.52.
Mất tất cả để trở thành số không khủng khiếp (cái mày muốn giáng cho ta thì chính mày lãnh hết!)
Không tự do, không sức mạnh, không hài hòa
Không quang vinh, không trí tuệ, không thơ ca
Không là không dẫu nhân với triệu lần Ních-xơn toan tính
Cứ ngày đêm đồng vọng giữa Oa-sinh-tơn
Trong khi các người trả món nợ oán hờn
Ngã gục chết trên mũi giày tội ác
Ngã gục chết trong cô đơn đậm đặc
Với vết giày răng chó gặm vào tim…

*

TIẾNG GỌI TỪ MÁU LỬA: TỐ CÁO VÀ PHÁN XÉT TRONG “GIẶC MỸ” CỦA NGUYỄN KHOA ĐIỀM

Bài thơ Giặc Mỹ của Nguyễn Khoa Điềm là một bản cáo trạng đanh thép, một tiếng nói từ máu lửa, từ đau thương của dân tộc trước sự xâm lăng tàn bạo của chủ nghĩa thực dân mới. Tác phẩm không chỉ tố cáo tội ác chiến tranh, mà còn đặt ra một sự phán xét nghiệt ngã dành cho những kẻ đã chà đạp lên nhân phẩm con người, biến chiến tranh thành một thứ công cụ vô nhân tính.

Lịch sử lặp lại dưới hình thức man rợ hơn

Mở đầu bài thơ, tác giả tái hiện cảnh tượng lịch sử: khi tên lính Pháp cuối cùng rời đi, một tên lính Mỹ khác lập tức thế chỗ. Sự thay thế ấy không đơn thuần là sự chuyển giao quyền lực giữa các thế lực xâm lược, mà còn là dấu hiệu cho một chu kỳ tội ác mới, tàn bạo và tinh vi hơn.

“Tên lính Pháp quay đi
Tên lính Mỹ vào ngay…”

Không còn là những tên thực dân cũ với lưỡi lê và còng số 8, quân xâm lược giờ đây khoác lên mình bộ giáp của khoa học kỹ thuật, của những công cụ giết người tối tân. Chúng mang theo trực thăng, bom napalm, chất độc hóa học, những thứ vũ khí có thể hủy diệt không chỉ con người mà cả những giá trị tinh thần và lịch sử của một dân tộc.

Sự tha hóa của con người trong chiến tranh

Nguyễn Khoa Điềm vạch trần bản chất của những tên lính Mỹ:

“Nó giết người, quăng bom, hít hê-rô-in, rửa tội
Nó có bà biểu tình trong chiến dịch mùa thu…”

Chúng không chỉ là những cỗ máy giết chóc, mà còn là nạn nhân của chính hệ thống mà chúng phục vụ. Những con người bị biến thành công cụ, bị điều khiển bởi những kẻ đứng sau bàn cờ chính trị, những kẻ thao túng chiến tranh để trục lợi.

Những hình ảnh trong bài thơ trở nên ám ảnh khi tác giả mô tả cách giặc Mỹ hành xử với con người Việt Nam:

“Tao đánh cho mày tuyệt đường sinh nở!
Tao moi gan mày thử xem to hay nhỏ!”

Đây không còn là chiến tranh thông thường, mà là một cuộc diệt chủng có hệ thống. Quân xâm lược không chỉ muốn chiếm đóng lãnh thổ, mà còn muốn xóa sổ dân tộc Việt Nam khỏi lịch sử. Chúng muốn tiêu diệt không chỉ thể xác mà cả tinh thần, triệt tiêu cả những giá trị văn hóa và truyền thống ngàn đời.

Sự thất bại của kẻ xâm lược

Dù cho Mỹ có bao nhiêu vũ khí, bao nhiêu kế hoạch tinh vi, chúng vẫn không thể chiến thắng được Việt Nam. Vì chúng không hiểu rằng, Việt Nam không chỉ là một dải đất, mà là một tinh thần bất diệt. Tác giả khẳng định:

“Tên Mỹ kia! Mày bị căm ghét đời đời
Mày không giết nổi ta, cũng như không giết nổi sự khinh miệt của loài người.”

Giặc Mỹ có thể giết chóc, có thể gieo rắc kinh hoàng, nhưng chúng không thể bẻ gãy được ý chí quật cường của dân tộc Việt Nam. Và cuối cùng, chính chúng là kẻ gánh chịu thất bại ê chề nhất, vì đánh mất tất cả những giá trị cao quý của con người.

Kết luận: Lời cảnh tỉnh cho nhân loại

Giặc Mỹ không chỉ là bài thơ tố cáo chiến tranh, mà còn là lời cảnh tỉnh cho nhân loại về những hậu quả của chủ nghĩa thực dân mới. Nguyễn Khoa Điềm không chỉ nói lên nỗi đau của dân tộc Việt Nam, mà còn gửi đi một thông điệp mạnh mẽ: mọi kẻ xâm lược, dù là ai, dù mang danh nghĩa gì, cuối cùng cũng sẽ bị lịch sử phán xét.

Bài thơ kết thúc bằng một hình ảnh đầy ám ảnh:

“Ngã gục chết trên mũi giày tội ác
Ngã gục chết trong cô đơn đậm đặc
Với vết giày răng chó gặm vào tim…”

Những kẻ gieo rắc đau thương cuối cùng sẽ chết trong chính sự cô độc và nỗi ám ảnh của tội ác mà chúng gây ra. Còn dân tộc Việt Nam – những con người đã chịu đựng và chiến đấu – sẽ mãi mãi đứng vững trong lịch sử.

*

Nguyễn Khoa Điềm – Nhà thơ và Nhà chính trị Việt Nam

Nguyễn Khoa Điềm (sinh ngày 15/4/1943), tên thật là Nguyễn Hải Dương, là một nhà thơ, nhà chính trị nổi bật của Việt Nam. Ông từng giữ nhiều chức vụ quan trọng như Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng khóa IX, Trưởng ban Tư tưởng – Văn hóa Trung ương, Bộ trưởng Bộ Văn hóa – Thông tin và Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa X.

Sinh ra tại Thừa Thiên Huế, Nguyễn Khoa Điềm xuất thân trong một gia đình có truyền thống văn hóa, là con trai của nhà báo Hải Triều. Ông học tập tại miền Bắc và tốt nghiệp Đại học Sư phạm Hà Nội năm 1964. Sau đó, ông vào miền Nam tham gia phong trào học sinh, sinh viên, hoạt động trong Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, vừa chiến đấu vừa sáng tác thơ ca.

Nguyễn Khoa Điềm được biết đến với những tác phẩm mang đậm chất sử thi và tinh thần yêu nước. Tiêu biểu nhất là trường ca Mặt đường khát vọng (1974), tác phẩm thể hiện sâu sắc tinh thần dân tộc và tư tưởng về đất nước, con người Việt Nam. Ngoài ra, ông còn có nhiều tập thơ giá trị như Ngôi nhà có ngọn lửa ấm (1986), Cõi lặng (2007), và được trao tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật.

Sau khi nghỉ hưu, ông sống tại Huế, tiếp tục đóng góp cho văn học nước nhà bằng những tác phẩm giàu ý nghĩa. Nguyễn Khoa Điềm là một trong những gương mặt tiêu biểu của nền thơ ca kháng chiến và văn học Việt Nam hiện đại.

Viên Ngọc Quý.

Bạn cũng có thể thích..

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *