Giang hồ
Tặng Nguyễn và Hoàng, hai vị anh hùng của một ngày mưa gió.
Mời anh cạn hết chén này,
Trăng vàng ở cuối non tây ngậm buồn.
Tiếng gà đã rộn trong thôn,
Nửa đời phiêu lãng chỉ còn đêm nay.
Để lòng với rượu cùng say,
Chừ đây lời nói chua cay lạ thường!
Chừ đây đêm hãy đầy sương,
Con thuyền còn buộc, trăng buông lạnh lùng!
Chừ đây trăng nước não nùng,
Chừ đây hoa cỏ bên sông rũ buồn.
Tiếng gà lại rộn trong thôn…
Khoan đừng tơ tưởng vợ con ở nhà
Giờ này còn của đôi ta,
Giang hồ rượu ấy còn pha lệ người,
Ô sao rượu chẳng kề môi,
Lời đâu kiều diễm cho nguôi lòng chàng?
*
Tay em nâng chén hoàng hoa,
Sá gì hớp rượu vì ta bận lòng.
Hãy gượm lắng nghe dòng sông chảy,
Gió đùa trăng trên bãi lạnh lùng.
Sá gì hớp rượu, bận lòng,
Đợi gì môi nhấp rượu nồng mới say?
Hãy nhích lại đưa tay ta nắm
Hãy buông ra đằm thắm nhìn nhau.
Rồi trong những phút giây lâu,
Mắt sầu gợn sóng, lòng đau rộn tình.
Phút giây ấy, ta mình ngây ngất,
Bỗng con thuyền buộc chặt, rời cây.
Cho ta khất chén rượu này,
Vì ta em hãy lựa dây đoạn trường.
Khoan để đốt chút hương trầm đã!
Đợi trầm bay rộn rã lời ca…
Nghe xong ta ngắm lời xa,
Dòng sông Ngân đã nhạt mờ từ lâu.
Tiếng gà đã gáy mau trong xóm,
Bình minh đà rạng khóm tre cồn.
Trông nàng môi nạt màu son,
Giật mình ta nhớ vợ con ở nhà,
Từ đấy chẳng bao giờ phiêu lãng,
Niềm thê nhi ngày tháng quen dần.
Đôi phen nhớ cảnh phong trần:
Bóng nàng ẩn hiện xa gần đâu đây.
Tưởng nghe tiếng gọi nơi hồ hải,
Mắt lệ mờ ta mải trông theo,
Trong buồng bỗng tiếng con reo,
Vội vàng khép cửa gió heo lạnh lùng.
*
Đêm ấy rượu nàng ta không uống,
Từ sau thề không uống rượu ai.
Đòi phen ngồi ngóng chân trời,
Chẳng bao giờ nghĩ đến đời phiêu lưu.
Ngoan ngoãn như con cừu non dại,
Cỏ quanh vườn cắn mãi còn ngon.
Sau lưng nghe tiếng cười dòn,
Vội vàng ngoảnh lại… thằng con vẫn cười.
Nó đưa ta một chai rượu bé,
Bảo rằng: “Đây, rượu mẹ dâng cha”
Giật mình ta mới nhớ ra:
Là ngày sinh nhật vợ ta đó mà!
Ta uống chẳng hoá ra lỗi hẹn,
Mà từ nan đâu vẹn đạo chồng!
Than ôi! trời giá đêm đông,
Màu du tử thực bên lòng hết sôi?
Chén lại chén kề môi thủ thỉ,
Càng vơi càng tuý luý càng đầy!
Lúc tỉnh rượu lặng ngồi bên án,
Trông vào gương, lằn trán có vôi;
Vợ con khúc khích đừng cười,
Còn ta vô ý lệ rơi xuống bàn,
Hết say vẫn bàng hoàng trong mộng
Xót xa thay cái giống giang hồ!
Ngón đàn thêm một đưòng tơ,
Mà người sương gió nghìn thu nhọc nhằn,
*
Thôi rồi ra chốn nước non,
Lồng son lại để sổ con chim trời.
Thú hồ bể quyến mời du tử,
Niềm thê nhi khôn giữ được người.
Biết sao trái được tính trời,
Giang hồ cốt ấy, trọn đời phiêu linh…
Hôm nay ngồi rũ canh trường,
Nơi thuyền trọ, rượu quỳnh tương ai mời
Người dâng rượu xa nơi trần giới,
Lạnh lùng thay gió thổi đêm đông!
Tuy người đã khuất non sông,
Mặt hoa lãng đãng như lồng dưới trăng
Mường tượng thấy tung tăng cười nói,
Như tưởng chừng người mới hôm qua!…
Nào hay nghìn cổ cách xa,
Tài tình đến thế mà ra hão huyền!
Hoạ còn chút trong thuyền dấu cũ,
Cây đàn tranh mốc ủ trên phên,
Phím long, dây đã rỉ rền,
Còn nguyên trên gỗ ghi tên họ người.
Nàng xưa vốn một loài trăng gió
Cũng vì vương víu nợ cầm ca
Một đi lìa cửa lìa nhà,
Nắm xương tàn lạnh phương xa gửi nhờ.
Đêm nay hoạ có mình ta,
Đốt hương trầm cũ chờ ma dạo đàn.
*
Giang Hồ – Kiếp Lữ Khách Giữa Đời Sương Gió
Có những người sinh ra để phiêu lãng, để mãi mãi không thuộc về một nơi nào cả. Họ ôm trong lòng nỗi hoài cảm khôn nguôi, vừa khát khao tự do, vừa bị trói buộc bởi những sợi dây vô hình của quá khứ và tình cảm con người. Giang hồ của Lưu Trọng Lư là một bản trường ca đầy day dứt về thân phận lữ khách, về sự giằng xé giữa thú giang hồ và nghĩa thê nhi, giữa quá khứ hào hoa và thực tại bình lặng.
Chén rượu giang hồ – Một kiếp mộng mơ không điểm dừng
Bài thơ mở đầu trong một buổi tiệc rượu, khi nhân vật trữ tình cùng bằng hữu ngồi giữa trời đêm, uống chén rượu cuối cùng trước khi cuộc đời rẽ sang một lối khác:
“Mời anh cạn hết chén này,
Trăng vàng ở cuối non tây ngậm buồn.
Tiếng gà đã rộn trong thôn,
Nửa đời phiêu lãng chỉ còn đêm nay.”
Câu thơ như một lời tiễn biệt quá khứ rong ruổi, như một dấu lặng giữa những ngày tháng phiêu du không bến đỗ. Trăng buồn, sông lặng, tất cả cảnh vật dường như cũng chung tâm trạng với người lữ khách – một nỗi hoài niệm ngập tràn.
Dẫu biết chén rượu giang hồ có vị đắng, có cả lệ người hòa lẫn, nhưng lữ khách vẫn không thể buông bỏ. Hắn chìm trong hơi men, trong lời ca, trong ánh trăng lạnh lẽo của cuộc đời phiêu bạt.
Tình duyên giang hồ – Một cuộc gặp gỡ rồi chia xa
Một người đàn bà bước vào cuộc đời chàng lữ khách, nâng chén rượu hoàng hoa, trao nhau những ánh mắt triền miên. Nhưng trong khoảnh khắc tưởng như đắm say đó, trái tim kẻ phiêu linh vẫn bất an:
“Tay em nâng chén hoàng hoa,
Sá gì hớp rượu vì ta bận lòng.
Hãy gượm lắng nghe dòng sông chảy,
Gió đùa trăng trên bãi lạnh lùng.”
Tình cảm đến rồi đi như nước chảy qua cầu, dù có nắm chặt trong tay cũng chẳng thể giữ mãi được. Lữ khách bỗng giật mình nhận ra, con thuyền buộc chặt bỗng rời bến, như chính cuộc đời mình – cứ thế mà trôi đi.
“Tiếng gà đã gáy mau trong xóm,
Bình minh đà rạng khóm tre cồn.
Trông nàng môi nạt màu son,
Giật mình ta nhớ vợ con ở nhà.”
Lời thơ thảng thốt, như một cú giật mình giữa cơn mê. Kẻ giang hồ bỗng nhớ đến người vợ hiền nơi quê nhà, nhớ đến mái ấm mà bấy lâu hắn đã bỏ quên.
Từ bỏ phiêu lãng – Hạnh phúc nơi mái nhà xưa
Từ giây phút đó, người lữ khách quyết định từ bỏ chốn phong trần, chấp nhận cuộc sống bình lặng bên vợ con. Không còn những cuộc vui trác táng, không còn rượu tiệc đàn ca. Hắn trở thành một con người khác – ngoan ngoãn, hiền lành như con cừu non trong khu vườn nhỏ:
“Ngoan ngoãn như con cừu non dại,
Cỏ quanh vườn cắn mãi còn ngon.
Sau lưng nghe tiếng cười dòn,
Vội vàng ngoảnh lại… thằng con vẫn cười.”
Nhưng liệu có ai thật sự thoát khỏi quá khứ? Khi nhận được chai rượu nhỏ từ con mình – món quà sinh nhật của người vợ hiền, lữ khách lại một lần nữa bị giằng xé giữa hiện tại và những tháng ngày cũ.
“Là ngày sinh nhật vợ ta đó mà!
Ta uống chẳng hoá ra lỗi hẹn,
Mà từ nan đâu vẹn đạo chồng!
Than ôi! trời giá đêm đông,
Màu du tử thực bên lòng hết sôi?”
Hắn uống, nhưng không còn là chén rượu giang hồ của ngày xưa, mà là chén rượu của nghĩa tình, của trách nhiệm, của sự cam chịu. Hạnh phúc gia đình đã giữ chân hắn, nhưng sâu trong lòng, con sóng giang hồ vẫn chưa bao giờ lặng yên.
Số kiếp giang hồ – Trọn đời phiêu linh
Cuộc sống bình lặng không thể giữ chân một kẻ sinh ra để phiêu bạt. Dù đã từng hứa sẽ không rời xa gia đình, nhưng đến một ngày, hắn vẫn lên đường.
“Thôi rồi ra chốn nước non,
Lồng son lại để sổ con chim trời.
Thú hồ bể quyến mời du tử,
Niềm thê nhi khôn giữ được người.”
Đó là số kiếp, là bản năng, là điều không thể tránh khỏi. Kẻ giang hồ sinh ra đã thuộc về những chân trời xa lạ, đã quen với gió sương, với những chén rượu đắng cay. Hắn ra đi, để lại sau lưng vợ hiền, con thơ, mái nhà ấm áp.
Nhưng rồi, có ai thoát được sự cô đơn của đời lữ khách? Đến cuối đời, hắn lại ngồi trong một quán trọ nơi xa lạ, nhấp chén rượu trong đêm đông lạnh lẽo, hoài niệm về người xưa, về cây đàn cũ, về những ngày tháng đã xa.
“Nào hay nghìn cổ cách xa,
Tài tình đến thế mà ra hão huyền!”
Tất cả những gì còn lại chỉ là những mảnh vụn ký ức, là hình bóng một người phụ nữ từng yêu, là cây đàn mốc cũ, là những giấc mộng phù hoa đã tan biến.
Lời kết – Hư ảo một kiếp giang hồ
Lưu Trọng Lư đã vẽ nên một bức tranh tuyệt đẹp về kiếp sống giang hồ – vừa lãng mạn, hào hoa, nhưng cũng đầy cô độc và bi kịch. Nhân vật trong bài thơ là hình ảnh của biết bao con người – những kẻ mải mê theo đuổi tự do, nhưng rồi lại khắc khoải trong nỗi cô đơn của chính mình.
Có những lúc, người ta tưởng rằng mình có thể từ bỏ quá khứ, có thể an phận bên một mái nhà, nhưng bản chất con người không dễ gì thay đổi. Kẻ giang hồ có thể ngừng bước một thời gian, nhưng rồi đến cuối cùng, hắn vẫn thuộc về những cơn gió bụi phong trần.
Giang hồ cốt ấy, trọn đời phiêu linh…
Bài thơ khép lại trong một nỗi buồn day dứt, như tiếng đàn tranh vang lên trong đêm đông lạnh giá, như bóng một lữ khách đơn độc giữa trời sương. Tình yêu, danh vọng, gia đình – tất cả chỉ là những khoảnh khắc thoáng qua, còn số kiếp giang hồ vẫn mãi là một vòng xoáy vô tận, không thể nào dừng lại.
*
Lưu Trọng Lư – Người tiên phong của Phong trào Thơ mới
Lưu Trọng Lư (19/6/1911 – 10/8/1991) là nhà thơ, nhà văn, nhà soạn kịch Việt Nam, sinh ra tại làng Cao Lao Hạ, xã Hạ Trạch, huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình. Ông xuất thân trong một gia đình nho học và sớm bộc lộ tài năng văn chương.
Là một trong những người khởi xướng và tích cực cổ vũ Phong trào Thơ mới, Lưu Trọng Lư đã để lại dấu ấn sâu đậm với những vần thơ trữ tình giàu cảm xúc, nổi bật là bài Tiếng thu với hình ảnh “con nai vàng ngơ ngác” đã trở thành biểu tượng của thi ca Việt Nam. Ngoài thơ, ông còn sáng tác văn xuôi, kịch nói, cải lương, góp phần phong phú cho nền văn học nghệ thuật nước nhà.
Sau Cách mạng Tháng Tám, ông tham gia Văn hóa cứu quốc, hoạt động tuyên truyền văn nghệ trong kháng chiến. Sau năm 1954, ông tiếp tục cống hiến trong lĩnh vực sân khấu và văn học, từng giữ chức Tổng Thư ký Hội Nghệ sĩ Sân khấu Việt Nam.
Với những đóng góp lớn lao, năm 2000, Lưu Trọng Lư được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật. Lưu Trọng Lư không chỉ là một nhà thơ tài hoa mà còn là người đã góp phần làm thay đổi diện mạo thơ ca Việt Nam.
Viên Ngọc Quý.