Cảm nhận bài thơ: Gió đêm xuân – Huy Thông

Gió đêm xuân

– Trên trời lam
Le lói bó hoa sao
Gió dạt dào
Lay bóng trăng trên cành lá thông chàm.

– Trông làn mây
Chan chứa những sao vàng
Đang mơ màng
Trên đỉnh thông xanh biếc thướt tha bay!

– Tắm bóng đêm,
Chim lặng tiếng vui ca
Để đôi ta
Nghe gió xuân khoan nhặt tiếng êm đềm.

– Ôi! du dương
Và réo rắt xiết bao
Tiếng thì thào
Của gió xuân khuyên nhủ nỗi yêu đương!

– Gió ngân nga!
Mau cất tiếng âm trầm,
Để thì thầm
Cùng non sông bát ngát nỗi lòng ta!

– Cứ thờ ơ
Mà cuốn thẳng, gió trời!
Ta van ngươi
Mặc cho đôi ta lặng lẽ say sưa!


Thu năm 1933

*

Lặng Lẽ Say Sưa Trong Gió Thu

Có những đêm thu, ta lặng nhìn bầu trời trong vắt, nơi ánh trăng lấp lánh hòa cùng muôn vì sao xa xăm. Gió thổi qua tán lá, thầm thì những bản nhạc không lời, nhẹ nhàng chạm vào trái tim ta như một lời nhắn gửi từ thiên nhiên. Trong bài thơ Thu, Huy Thông đã khắc họa một bức tranh thu mang đậm sắc thái trữ tình, nơi thiên nhiên và tâm hồn con người hòa quyện trong những rung động dịu dàng nhất.

Bức tranh đêm thu – khi thiên nhiên cũng biết mộng

Mở đầu bài thơ là hình ảnh bầu trời thu cao rộng với những ánh sao lấp lánh:

– Trên trời lam
Le lói bó hoa sao
Gió dạt dào
Lay bóng trăng trên cành lá thông chàm.

Bầu trời mùa thu được ví như một bó hoa sao rực rỡ, tỏa sáng nhẹ nhàng giữa không gian lam thẳm. Những ngôi sao không đơn thuần là điểm sáng vô tri, mà chúng như những cánh hoa lung linh trong màn đêm huyền bí. Trong cái nền trời xanh biếc ấy, ánh trăng lại hiện lên mơ màng, lấp loáng trên cành lá thông chàm trong làn gió dạt dào. Khung cảnh ấy mang một vẻ đẹp thanh khiết, nhẹ nhàng mà sâu lắng, như một nốt trầm trong bản nhạc của thời gian.

Những đám mây mộng mơ và gió thu thì thầm

– Trông làn mây
Chan chứa những sao vàng
Đang mơ màng
Trên đỉnh thông xanh biếc thướt tha bay!

Không chỉ bầu trời, ngay cả những đám mây cũng mang trong mình những giấc mộng vàng. Chúng nhẹ trôi, vấn vương nơi đỉnh thông xanh biếc, tựa như một tâm hồn yêu đang lặng lẽ mơ về những điều xa xăm. Gió thu không chỉ là hơi thở của thiên nhiên, mà còn là nhịp đập của nỗi lòng, là tiếng nói của những điều thầm kín, không thể thốt nên lời.

Sự lặng im của vạn vật – khoảnh khắc của tình yêu thăng hoa

– Tắm bóng đêm,
Chim lặng tiếng vui ca
Để đôi ta
Nghe gió xuân khoan nhặt tiếng êm đềm.

Trong bức tranh thu ấy, chim cũng ngừng tiếng hót, như thể để dành không gian cho sự lắng đọng của con người. Đây chính là lúc đôi lứa tìm thấy nhau, không bằng lời nói mà bằng những xúc cảm tinh tế nhất. Sự yên lặng không còn là khoảng trống cô đơn, mà trở thành một nốt nhạc trầm lắng trong bản giao hưởng tình yêu.

– Ôi! du dương
Và réo rắt xiết bao
Tiếng thì thào
Của gió xuân khuyên nhủ nỗi yêu đương!

Gió thu không chỉ là gió, nó biết hát, biết thì thầm, biết nhắn nhủ về tình yêu. Từng làn gió cuốn qua không gian, mang theo những cảm xúc dâng trào, như thể mùa thu cũng đang muốn nâng niu, chở che cho những kẻ đang yêu.

Lời van nài với gió – mong cho tình yêu mãi vẹn nguyên

– Gió ngân nga!
Mau cất tiếng âm trầm,
Để thì thầm
Cùng non sông bát ngát nỗi lòng ta!

– Cứ thờ ơ
Mà cuốn thẳng, gió trời!
Ta van ngươi
Mặc cho đôi ta lặng lẽ say sưa!

Đến cuối bài thơ, tác giả như muốn cầu xin gió hãy cứ nhẹ nhàng trôi qua, hãy để lại chút tĩnh lặng cho đôi lứa đắm mình trong khoảnh khắc yêu thương. Đây không còn đơn thuần là một bài thơ về thiên nhiên, mà đã trở thành một bài thơ tình, một khúc ca về sự hòa quyện giữa đất trời và lòng người.

Thông điệp của bài thơ – Hãy tận hưởng từng khoảnh khắc yêu thương

Thu của Huy Thông không mang vẻ buồn man mác như thu trong thơ Nguyễn Khuyến, cũng không u hoài như thu của Lưu Trọng Lư, mà là một mùa thu trong trẻo, dịu dàng và đầy chất thơ.

Bài thơ nhắn nhủ ta hãy biết trân quý những khoảnh khắc bình yên trong cuộc đời, bởi vì mùa thu không chờ đợi, tình yêu cũng không mãi vẹn nguyên. Một ánh trăng, một làn gió, một đêm thu tĩnh lặng bên người thương – đó chính là những gì đáng để ta nâng niu trong cuộc đời này.

*

Phạm Huy Thông (1916–1988) – Nhà thơ, nhà giáo, nhà khoa học xã hội Việt Nam

Phạm Huy Thông sinh ngày 22 tháng 11 năm 1916 tại Hà Nội, trong một gia đình kinh doanh lớn, giàu tinh thần dân tộc. Ông là hậu duệ của danh tướng Phạm Ngũ Lão, quê gốc ở Hưng Yên.

Ngay từ nhỏ, Phạm Huy Thông đã bộc lộ tài năng xuất sắc. Ông nổi tiếng trong phong trào Thơ Mới với bài Tiếng địch sông Ô khi mới 16 tuổi. Năm 21 tuổi, ông tốt nghiệp cử nhân Luật tại Viện Đại học Đông Dương, sau đó sang Pháp tiếp tục học tập và trở thành Tiến sĩ Luật, Thạc sĩ Sử – Địa khi mới 26 tuổi. Ông từng là Giáo sư, Ủy viên Hội đồng Giáo dục tối cao của Pháp và có thời gian giúp việc Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Hội nghị Fontainebleau năm 1946.

Sau khi trở về Việt Nam, ông giữ nhiều trọng trách như Hiệu trưởng Trường Đại học Sư phạm Hà Nội (1956–1966), Viện trưởng Viện Khảo cổ học (1967–1988), Đại biểu Quốc hội khóa II, III. Ông có nhiều đóng góp trong nghiên cứu lịch sử, khảo cổ học với các công trình tiêu biểu như Thời đại các Vua Hùng dựng nước, Khảo cổ học 10 thế kỷ sau Công nguyên, Khảo cổ học với văn minh thời Trần.

Bên cạnh sự nghiệp khoa học, ông còn là nhà thơ, có thơ được nhắc đến trong Thi nhân Việt Nam của Hoài Thanh – Hoài Chân. Năm 2000, ông được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh. Tên ông được đặt cho nhiều con đường tại Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh.

Ông qua đời ngày 21 tháng 6 năm 1988 tại Hà Nội.

Viên Ngọc Quý.

Bạn cũng có thể thích..

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *