Giới thiệu
Tặng Tú Mỡ
Xin đừng tìm biết rõ chàng ta,
– Nhân loại em gần vẫn xấu xa –
Có đến mà yêu thì hãy đến
Xem đầu mây gợn, mắt mây qua…
Giữa người, anh ráng giấu tên đi;
Thi sĩ, thưa cô, có quý gì!
Huống nữa người ta đều tự ái;
Bao giờ quen thuộc cũng khinh khi.
Hãy biết rằng anh lúc ở trường
Rất tồi toán pháp, khá văn chương.
Chàng trai đi học nghe chim giảng,
Không thuộc bài đâu; ấy sự thường.
Hết nợ thi rồi, đến nợ thi,
Than ôi khổ quá! học làm gì
Những chồng sách nặng khô như đá!
Ruộng gió đồng trăng anh ấy đi…
Nghe nói tình yêu tưởng trái ngon;
Cho lòng, không nghĩ mất hay còn.
Tay trầy gai góc, chân đau sỏi,
Anh bám, không thôi bám tuổi dòn.
Bạ kẻ nào đâu anh cũng mê,
Chân theo xa với, trí theo kề.
Si tình lắm đấy, – nhưng đôi lúc
Có gửi tình đi, chẳng có về.
Quá thực thà nên hoá dại khờ,
Bắt đầu người-chỉ-biết-yêu lo
Nỗi đời cay cực đang giơ vuốt,
Cơm áo không đùa với khách thơ.
Nhưng thoát sao ra lối hổ hùm
Nuốt đời bao kẻ hái văn thơm!
– Lần này lại sắp đi thi nữa:
Chắc hỏng mười phân; khấn nguyện giùm!
*
Chân Dung Một Thi Nhân – Khi Trái Tim Làm Chủ Ngòi Bút
Giới thiệu của Xuân Diệu không đơn thuần là một bài thơ, mà như một bức chân dung tự họa, một lời giãi bày vừa hóm hỉnh, vừa chua chát về cuộc đời của kẻ làm thơ. Ở đó, ta thấy một chàng thi sĩ vừa ngây ngô, khờ dại, vừa nhiệt thành đắm say, nhưng lại luôn mắc kẹt giữa lý tưởng và thực tại.
Khi thơ ca là một định mệnh
“Xin đừng tìm biết rõ chàng ta,
– Nhân loại em gần vẫn xấu xa –
Có đến mà yêu thì hãy đến
Xem đầu mây gợn, mắt mây qua…”
Ngay từ những câu thơ đầu, Xuân Diệu đã khéo léo vẽ nên hình ảnh một thi nhân sống giữa đời nhưng lại chẳng muốn ai nhìn thấu mình. Một sự cảnh báo nhẹ nhàng nhưng đầy hàm ý: đừng tìm hiểu quá sâu, vì thế gian vốn đầy những điều xấu xa. Một nhà thơ, một kẻ mộng mơ, chỉ mong được yêu thương bằng chính những vần thơ của mình, chứ không phải bị đem ra để soi xét, mổ xẻ.
Là thi sĩ, chàng ta không thuộc về cõi thực, mà thuộc về những tầng mây xa xăm, nơi mà tâm hồn có thể tự do bay bổng.
Người lữ hành cô độc trên con đường chữ nghĩa
“Giữa người, anh ráng giấu tên đi;
Thi sĩ, thưa cô, có quý gì!
Huống nữa người ta đều tự ái;
Bao giờ quen thuộc cũng khinh khi.”
Làm thơ không mang đến danh vọng, cũng chẳng giúp con người được tôn trọng. Đã quen biết quá lâu, người ta thường quên đi giá trị của nhau. Những kẻ làm thơ thường bị xem nhẹ, bị cười cợt, vì họ không chạy theo những thứ thực dụng, không cố gắng tranh giành để được nổi danh.
“Hết nợ thi rồi, đến nợ thi,
Than ôi khổ quá! học làm gì
Những chồng sách nặng khô như đá!
Ruộng gió đồng trăng anh ấy đi…”
Xuân Diệu tự khắc họa mình là một kẻ “không giỏi toán pháp, chỉ khá văn chương”, một người không thích gò bó trong những bài học khô khan mà chỉ mong tìm đến với thiên nhiên, với gió đồng, trăng sáng. Ở đây, ta thấy hình ảnh của một chàng trai luôn cảm nhận thế giới bằng trái tim, không chịu nổi sự gò bó của những khuôn phép khắc nghiệt.
Tình yêu – Niềm say mê và cũng là nỗi đau
“Nghe nói tình yêu tưởng trái ngon;
Cho lòng, không nghĩ mất hay còn.
Tay trầy gai góc, chân đau sỏi,
Anh bám, không thôi bám tuổi dòn.”
Với Xuân Diệu, yêu không chỉ là một cảm xúc, mà là một cuộc dấn thân. Yêu là lao vào như con thiêu thân, bất chấp mất mát hay tổn thương. Có thể vì quá đỗi đam mê, quá đỗi chân thành, nên chàng thi sĩ ấy không ngại đau đớn, không ngại va vấp.
Nhưng cuộc đời vốn không như những vần thơ đẹp. Kẻ si tình, đôi lúc cũng chỉ nhận lại sự lạnh lùng:
“Bạ kẻ nào đâu anh cũng mê,
Chân theo xa với, trí theo kề.
Si tình lắm đấy, – nhưng đôi lúc
Có gửi tình đi, chẳng có về.”
Những câu thơ này vừa hài hước, vừa chua chát. Chàng trai ấy yêu nhiều, nhưng không phải tình yêu nào cũng được hồi đáp. Đó là nỗi cô đơn của một tâm hồn khát khao được yêu thương, nhưng không phải lúc nào cũng tìm thấy một trái tim đồng điệu.
Thi sĩ – kẻ mộng mơ bị thực tại vùi dập
“Quá thực thà nên hoá dại khờ,
Bắt đầu người-chỉ-biết-yêu lo
Nỗi đời cay cực đang giơ vuốt,
Cơm áo không đùa với khách thơ.”
Nếu tình yêu là một cuộc truy tìm vô vọng, thì hiện thực lại là một tấm lưới tàn nhẫn. Làm thơ không giúp con người ta có miếng ăn. Cái nghịch lý đau đớn ấy được Xuân Diệu diễn tả trong một câu thơ đầy xót xa: “Cơm áo không đùa với khách thơ”.
Những thi nhân có thể say mê với những vần điệu, với những giấc mơ cao xa, nhưng rồi cũng phải đối mặt với những lo toan đời thường. Lãng mạn đến đâu, thì họ cũng không thể thoát khỏi những nhu cầu thiết yếu của cuộc sống.
Lời tự trào cay đắng nhưng vẫn đầy hy vọng
“Nhưng thoát sao ra lối hổ hùm
Nuốt đời bao kẻ hái văn thơm!
– Lần này lại sắp đi thi nữa:
Chắc hỏng mười phân; khấn nguyện giùm!”
Cuối bài thơ, Xuân Diệu khéo léo lồng vào một chút hài hước. Dù biết rằng con đường mình đi đầy chông gai, dù biết rằng có thể lại thất bại, nhưng chàng thi sĩ ấy vẫn không bỏ cuộc. Dù cay đắng, dù mệt mỏi, người làm thơ vẫn tiếp tục hành trình của mình, vẫn bước đi giữa đời với những vần điệu trong tim.
Thông điệp của bài thơ
Giới thiệu không chỉ là một bức chân dung tự họa của Xuân Diệu, mà còn là một tiếng lòng chung của những kẻ làm thơ, những tâm hồn yêu đời nhưng cũng quá nhạy cảm trước những khắc nghiệt của cuộc sống.
Bài thơ mang một nỗi buồn nhẹ nhàng nhưng sâu sắc: buồn vì tình yêu không trọn vẹn, buồn vì cuộc đời không ưu ái những kẻ mộng mơ, buồn vì con đường theo đuổi chữ nghĩa luôn đầy rẫy những thử thách.
Nhưng giữa những nỗi buồn ấy, vẫn có một ngọn lửa không bao giờ tắt: đó là lòng say mê, là khát khao yêu thương, là sự trung thành với thơ ca. Dù có vấp ngã, dù có bị thực tế vùi dập, kẻ làm thơ vẫn sẽ tiếp tục viết, tiếp tục yêu, tiếp tục sống như chính mình.
Đó chính là tinh thần Xuân Diệu – một thi nhân không chỉ biết mơ mộng, mà còn biết chiến đấu cho những điều mình tin tưởng.
*
Xuân Diệu – “Ông hoàng thơ tình” của văn học Việt Nam
Xuân Diệu (1916–1985), tên khai sinh là Ngô Xuân Diệu, là một trong những nhà thơ xuất sắc nhất của nền văn học hiện đại Việt Nam. Với phong cách sáng tác độc đáo, giàu cảm xúc và khát vọng yêu đời mãnh liệt, ông đã để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng bao thế hệ độc giả.
Sinh ra tại Hà Tĩnh nhưng lớn lên ở Quy Nhơn, Bình Định, Xuân Diệu sớm bộc lộ niềm đam mê văn chương. Ông là gương mặt tiêu biểu của phong trào Thơ Mới, mang đến một luồng sinh khí mới cho thi ca Việt Nam. Những tác phẩm như Thơ thơ (1938) hay Gửi hương cho gió (1945) thể hiện rõ nét giọng điệu sôi nổi, táo bạo, chan chứa tình yêu và khát khao tận hưởng vẻ đẹp cuộc sống.
Sau năm 1945, Xuân Diệu chuyển hướng sáng tác, hòa mình vào dòng chảy cách mạng, ca ngợi quê hương, đất nước và con người lao động. Dù ở giai đoạn nào, thơ ông vẫn giữ nguyên vẹn sự say mê và rung động sâu sắc. Những tác phẩm như Riêng chung (1960) hay Hai đợt sóng (1967) tiếp tục khẳng định vị trí của ông trên thi đàn.
Không chỉ là nhà thơ, Xuân Diệu còn là nhà văn, nhà phê bình có ảnh hưởng lớn. Năm 1996, ông được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật, ghi nhận những đóng góp to lớn của mình.
Xuân Diệu vẫn mãi là biểu tượng của thơ tình Việt Nam, là tiếng nói tha thiết của một tâm hồn luôn khát khao yêu và sống trọn vẹn từng khoảnh khắc:
“Hãy tận hưởng ngày giờ đang thở,
Và yêu đời, hãy sống mạnh hơn tôi.”
Viên Ngọc Quý