Gửi sông Hiền Lương
Sông Hiền ơi, gặp nhau về hai tháng
Đến hôm nay tôi mới nói nên lời,
Lòng hãy còn nghẹn đắng ở trên môi
Thăm hỏi Cửa Tùng, Bến Hải…
Vượt đèo Ngang
Qua sông Gianh tôi vào Đồng Hới,
Qua Truông nhà Hồ
Vào Hộ Xá tôi tới Hiền Lương.
Tôi đến đây đem mến đem thương,
Tôi trở về đem thương đem nhớ.
Xa gì xa bề ngang chiếc đũa!
Chỉ bắc cầu giải yếm cũng vừa sang;
Soi đôi bên mặt anh lẫn mặt nàng,
Xa gì xa trong bàn tay mở!
Lên trên nguồn có bờ đâu nữa;
Xuống dưới biển cửa sông chỉ vài đòn gánh mà thôi;
Xa chi xa oan xa ức, xa tức xa tối,
xa không sợ tội với ông trời,
Sóng vô hạn vô hồi hơn đôi bãi cát!
*
Người xinh cái nón cũng xinh,
Sông lành sông đẹp cái tên cũng lành,
Hiền Lương nước biếc cây xanh,
Lòng ta đến đó sao mà quặn thắt?
Sao sum họp với chia lìa trong mắt,
Một xã Vinh Sơn quấn chặt ân tình,
Thôn xóm sóng song như bóng với hình,
Một trời đất, có chi là đổi khác?
Thế mà thấy bên bờ Nam chị giặt,
Những con trâu đầm nước, những người lên,
Dưới trưa xanh những em nhỏ đứng nhìn,
Tôi bỗng ứa đôi tròng, tay nắm lại!
Tôi xé nát lưới vô hình trong không khí,
Mắt mở to nhìn chị, tôi nhìn em,
Tôi đạp đầu lũ quỷ xuống trong đêm,
Trên chúng nó, dân tộc ta mạnh bước.
Trong khoảnh khắc, sông Hiền Lương đằng trước.
Tôi nhìn như sông Hương nước chảy qua,
Sông Thu Bồn, sông Trà Khúc của ta,
Tưởng sông Ba, Cửu Long giang sóng hoà ăm ắp…
*
Lời căm uất tôi gửi từ miền Bắc
Sông Hiền ơi, những rung động chuyển giùm!
Chắc có người thi sĩ ở trong Nam
Ra giới tuyến, cũng nghĩ như tôi vậy.
Gửi ngàn mến với muôn thương trong ấy,
Gửi lời về xin bớt nhớ, khoan thương.
Gửi kiên trinh một tấm gan vàng!
6-1957
*
Sông Hiền Lương – Nỗi Nhớ Chia Đôi
Bài thơ Gửi sông Hiền Lương của Xuân Diệu là một tiếng lòng quặn thắt khi chứng kiến cảnh chia cắt đất nước. Con sông nhỏ bé, hiền hòa bỗng trở thành một ranh giới oan nghiệt, chia đôi Bắc – Nam, chia cắt biết bao gia đình, bao tâm hồn. Giữa khung cảnh tưởng chừng bình yên ấy lại chất chứa bao nỗi uất nghẹn, bao khát khao đoàn tụ, bao lời nhắn gửi đầy yêu thương từ miền Bắc đến miền Nam ruột thịt.
Một chuyến đi nặng tình và day dứt
Ngay từ những dòng thơ đầu tiên, Xuân Diệu đã bộc lộ cảm xúc nghẹn ngào của mình:
“Sông Hiền ơi, gặp nhau về hai tháng
Đến hôm nay tôi mới nói nên lời,
Lòng hãy còn nghẹn đắng ở trên môi
Thăm hỏi Cửa Tùng, Bến Hải…”
Ông đến sông Hiền Lương mang theo bao nỗi niềm, bao yêu thương, nhưng cũng phải mất một khoảng thời gian, ông mới có thể cất lời. Vì trước cảnh chia lìa quá đỗi đau xót, cảm xúc dâng trào khiến lời thơ như nghẹn lại. Đến đây không chỉ là để ngắm nhìn, mà là để thấu hiểu, để mang về một nỗi nhớ khắc khoải mãi không nguôi.
Một con sông – hai miền xa cách
Xuân Diệu đã dùng những hình ảnh rất đời thường để so sánh khoảng cách Bắc – Nam:
“Xa gì xa bề ngang chiếc đũa!
Chỉ bắc cầu giải yếm cũng vừa sang;
Soi đôi bên mặt anh lẫn mặt nàng,
Xa gì xa trong bàn tay mở!”
Chiều ngang con sông chỉ nhỏ bé như một chiếc đũa, một giải yếm, một cái nắm tay, nhưng lại trở thành rào cản vô hình ngăn cách những trái tim yêu thương. Con sông vẫn chảy hiền hòa, nước vẫn xanh biếc, nhưng bên này bờ và bên kia bờ, người thân chỉ có thể nhìn nhau trong nỗi nhớ mong day dứt.
Tác giả đau xót tự hỏi: “Một trời đất, có chi là đổi khác?” nhưng thực tại phũ phàng vẫn hiện hữu. Cảnh sắc vẫn vậy, con người vẫn vậy, chỉ có lòng người bị xé toạc bởi một ranh giới vô lý.
Nỗi đau và căm phẫn
Khi chứng kiến cảnh sinh hoạt đời thường của những con người bên kia bờ sông, Xuân Diệu không kìm được cảm xúc:
“Thế mà thấy bên bờ Nam chị giặt,
Những con trâu đầm nước, những người lên,
Dưới trưa xanh những em nhỏ đứng nhìn,
Tôi bỗng ứa đôi tròng, tay nắm lại!”
Một khung cảnh bình dị của đời sống lao động – giặt giũ, chăn trâu, trẻ con đứng nhìn – đáng lẽ phải là một bức tranh thanh bình, nhưng lại trở thành một nỗi đau. Nhà thơ không thể đến gần, không thể cất lời chào hỏi, không thể ôm chầm lấy những con người ấy. Chỉ có thể “ứa đôi tròng, tay nắm lại!” – một cảm giác tức giận, căm phẫn nhưng bất lực.
Không chịu khuất phục trước thực tại đau đớn ấy, ông muốn phá vỡ ranh giới vô hình:
“Tôi xé nát lưới vô hình trong không khí,
Mắt mở to nhìn chị, tôi nhìn em,
Tôi đạp đầu lũ quỷ xuống trong đêm,
Trên chúng nó, dân tộc ta mạnh bước.”
Bằng những câu thơ mạnh mẽ và đầy tính chiến đấu, Xuân Diệu khẳng định một niềm tin sắt đá: dân tộc Việt Nam sẽ không bao giờ chấp nhận sự chia cắt! Sự tồn tại của con sông Hiền Lương như một ranh giới tạm thời không thể ngăn cản bước chân của những người yêu nước, của những tấm lòng kiên trung, của ý chí đấu tranh vì thống nhất.
Lời nhắn gửi từ miền Bắc
Ở những dòng cuối bài thơ, Xuân Diệu hướng về miền Nam với những lời nhắn nhủ thiết tha:
“Lời căm uất tôi gửi từ miền Bắc
Sông Hiền ơi, những rung động chuyển giùm!
Chắc có người thi sĩ ở trong Nam
Ra giới tuyến, cũng nghĩ như tôi vậy.
Gửi ngàn mến với muôn thương trong ấy,
Gửi lời về xin bớt nhớ, khoan thương.
Gửi kiên trinh một tấm gan vàng!”
Ông tin rằng ở bên kia bờ sông, cũng có những trái tim đồng điệu, cũng có những nhà thơ đang day dứt vì nỗi chia cắt này. Vì thế, ông gửi đi tất cả thương nhớ, gửi đi cả lời động viên: “xin bớt nhớ, khoan thương” – hãy kiên trì, hãy nhẫn nại, vì ngày đoàn tụ sẽ không xa.
Sông Hiền Lương – biểu tượng của khát vọng thống nhất
Xuân Diệu đã viết bài thơ này vào năm 1957, khi Hiệp định Genève được ký kết chưa lâu, nhưng ranh giới Bắc – Nam vẫn còn là một nỗi đau hiện hữu. Bài thơ không chỉ là một tiếng lòng cá nhân, mà là tiếng nói chung của hàng triệu con người khao khát thống nhất, khao khát đoàn tụ.
Với giọng thơ trữ tình nhưng không kém phần sục sôi, Gửi sông Hiền Lương vừa là một bản nhạc buồn về sự chia lìa, vừa là một lời hiệu triệu mạnh mẽ cho một ngày thống nhất. Ngày ấy rồi sẽ đến, và khi đó, con sông này sẽ lại chảy trong niềm vui trọn vẹn, không còn là ranh giới chia cách, mà là dòng nước mát lành nối liền hai miền yêu thương.
*
Xuân Diệu – “Ông hoàng thơ tình” của văn học Việt Nam
Xuân Diệu (1916–1985), tên khai sinh là Ngô Xuân Diệu, là một trong những nhà thơ xuất sắc nhất của nền văn học hiện đại Việt Nam. Với phong cách sáng tác độc đáo, giàu cảm xúc và khát vọng yêu đời mãnh liệt, ông đã để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng bao thế hệ độc giả.
Sinh ra tại Hà Tĩnh nhưng lớn lên ở Quy Nhơn, Bình Định, Xuân Diệu sớm bộc lộ niềm đam mê văn chương. Ông là gương mặt tiêu biểu của phong trào Thơ Mới, mang đến một luồng sinh khí mới cho thi ca Việt Nam. Những tác phẩm như Thơ thơ (1938) hay Gửi hương cho gió (1945) thể hiện rõ nét giọng điệu sôi nổi, táo bạo, chan chứa tình yêu và khát khao tận hưởng vẻ đẹp cuộc sống.
Sau năm 1945, Xuân Diệu chuyển hướng sáng tác, hòa mình vào dòng chảy cách mạng, ca ngợi quê hương, đất nước và con người lao động. Dù ở giai đoạn nào, thơ ông vẫn giữ nguyên vẹn sự say mê và rung động sâu sắc. Những tác phẩm như Riêng chung (1960) hay Hai đợt sóng (1967) tiếp tục khẳng định vị trí của ông trên thi đàn.
Không chỉ là nhà thơ, Xuân Diệu còn là nhà văn, nhà phê bình có ảnh hưởng lớn. Năm 1996, ông được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật, ghi nhận những đóng góp to lớn của mình.
Xuân Diệu vẫn mãi là biểu tượng của thơ tình Việt Nam, là tiếng nói tha thiết của một tâm hồn luôn khát khao yêu và sống trọn vẹn từng khoảnh khắc:
“Hãy tận hưởng ngày giờ đang thở,
Và yêu đời, hãy sống mạnh hơn tôi.”
Viên Ngọc Quý