Cảm nhận bài thơ: Hài nhi lai Mẽo vứt trôi sông… – Nguyễn Vỹ

Hài nhi lai Mẽo vứt trôi sông…

 

Báo Tin Sớm số thứ hai 4-9,
Đăng một tin ở ấp Tân Sanh,
Một hài nhi lai Mẽo sơ sanh,
Bị vứt bỏ, trôi bập bềnh trên sông rạch.
Tội xác bé máu me chưa sạch,
Một đùm nhau chưa cắt, dính tùm lum!
Đồng bào ta trông thấy xót thương giùm,
Vớt xác bé đem trao cùng bệnh viện.
Rồi bác sĩ khám nghiệm.
Rồi cảnh sát truy tầm.
Ai người mẹ nhẫn tâm làm tội ác?
Riêng Diệu Huyền nghĩ: mấy ông Cảnh sát
Truy tầm ai? Lục soát kiếm đâu ra?
Hỏi biết ai nhân chứng trước quan toà?
Chiến tranh đó mới chính là thủ phạm.

Nói ra, càng hôi hám,
Việt Nam có chán vạn đứa con lai?
Hăm mấy năm chinh chiến quá lâu dài,
Muôn, ức, triệu, trẻ lạc loài, vô tổ quốc!
Nào lai Mỹ, lai Phi, lai Tàu, lai Úc,
Lai Đại Hàn, lai Thái, lúc nhúc lai… và lai.
Đứa mũi cao, đứa mũi xẹp,
Đứa mình ngắn, đứa mình dài,
Đứa tóc đỏ lai rai,
Đứa tóc quăn xoây xoấy;
Đứa trắng nõn trắng non,
Đứa đen thui như củi cháy!
Đứa oe oe dưới mái tôn.
Đứa rơi rớt trong cầu thang máy.
Muôn, ức, vạn, đứa hài nhi ấy,
Khắp nước Nam từ vĩ tuyến 17 đến Cà Mau,
Dân quốc tế đủ các sắc, các màu,
Mượn đất Việt để chôn nhau cắt rún,
Chúng đang sống hàng bà làng, hổ lốn,
Vì Chiến tranh, cha của chúng, là tên.
Và Chiến tranh là thủ phạm, cho nên…
“Thôi, bỏ đi tám” nói càng thêm tức giận!…


Đăng trên Tạp chí Phổ thông số 200, ngày 1-10-1967.

*

Hài Nhi Bị Bỏ Rơi – Ai Là Thủ Phạm?

1. Một Kiếp Người Vừa Mở Mắt Đã Lìa Đời

Bài thơ “Hài nhi lai Mẽo vứt trôi sông…” của Nguyễn Vỹ mở ra bằng một hình ảnh đau lòng: một đứa trẻ sơ sinh mang dòng máu lai Mỹ bị bỏ rơi, trôi bập bềnh trên dòng nước. Hình ảnh ấy không chỉ đơn thuần là bi kịch của một sinh linh bé nhỏ mà còn là tiếng than khóc cho một thời đại đầy rẫy những ngang trái.

“Tội xác bé máu me chưa sạch,
Một đùm nhau chưa cắt, dính tùm lum!”

Những câu thơ không hoa mỹ, không cầu kỳ, chỉ là những nét chấm phá đầy chân thực về một sinh mệnh còn chưa kịp chào đời trọn vẹn đã bị ruồng bỏ. Máu còn tươi, nhau còn dính, tất cả như chứng tích của một tội ác vô hình. Nhưng ai là kẻ có lỗi? Người mẹ bạc tình, xã hội vô cảm hay chiến tranh khốc liệt?

2. Truy Tìm Thủ Phạm – Một Câu Hỏi Vô Vọng

Người ta đưa thi thể hài nhi vào bệnh viện, bác sĩ khám nghiệm, cảnh sát truy tìm hung thủ. Nhưng Nguyễn Vỹ đã nhìn thấu sự vô nghĩa của những hành động ấy.

“Riêng Diệu Huyền nghĩ: mấy ông Cảnh sát
Truy tầm ai? Lục soát kiếm đâu ra?
Hỏi biết ai nhân chứng trước quan toà?
Chiến tranh đó mới chính là thủ phạm.”

Đúng vậy, làm sao có thể tìm ra người mẹ đã nhẫn tâm bỏ rơi đứa trẻ khi chính chiến tranh đã cướp đi mọi thứ? Đứa bé ấy không chỉ là một nạn nhân mà còn là biểu tượng của những hệ quả đau thương do chiến tranh để lại. Khi con người bị cuốn vào vòng xoáy của súng đạn, đạo đức bị xô đẩy, lòng trắc ẩn bị bóp nghẹt, và những đứa trẻ vô tội trở thành nạn nhân đầu tiên.

3. Những Đứa Trẻ Lai – Những Kiếp Người Không Quê Hương

Bài thơ không dừng lại ở một sinh mệnh duy nhất. Nguyễn Vỹ mở rộng tầm mắt ra toàn cõi Việt Nam, nơi có hàng vạn đứa trẻ lai không tên, không tổ quốc, không nơi nương tựa.

“Việt Nam có chán vạn đứa con lai?
Hăm mấy năm chinh chiến quá lâu dài,
Muôn, ức, triệu, trẻ lạc loài, vô tổ quốc!”

Những đứa bé ấy mang trong mình dòng máu của bao nhiêu quốc gia xa lạ: Mỹ, Phi, Tàu, Úc, Đại Hàn, Thái Lan… Chúng lớn lên trong một xã hội đầy định kiến, bị bỏ mặc giữa dòng đời mà không có ai bảo vệ. Nguyễn Vỹ đã vẽ nên một bức tranh tả thực về những đứa trẻ bị quên lãng, mỗi đứa mang một hình hài khác nhau nhưng chung một số phận bi thương.

“Đứa mũi cao, đứa mũi xẹp,
Đứa mình ngắn, đứa mình dài,
Đứa tóc đỏ lai rai,
Đứa tóc quăn xoây xoấy…”

Chúng không chỉ là sản phẩm của những cuộc tình chớp nhoáng trong chiến tranh, mà còn là chứng tích của một thời kỳ mà con người mất đi quyền làm chủ số phận.

4. Khi Chiến Tranh Là Kẻ Giết Người Lớn Nhất

Nguyễn Vỹ kết lại bài thơ bằng một sự chua chát. Không phải người mẹ là kẻ có tội, không phải những người đàn ông ngoại quốc là kẻ có tội, mà chính chiến tranh mới là thủ phạm đích thực.

“Vì Chiến tranh, cha của chúng, là tên.
Và Chiến tranh là thủ phạm, cho nên…”

Không cần những lời lên án nặng nề, chỉ một câu nói ấy cũng đủ để kết tội cả một thời đại. Khi con người không còn làm chủ vận mệnh, khi súng đạn thay thế tiếng nói, khi những đứa trẻ vừa ra đời đã phải chết trong oan nghiệt – đó chính là lúc chiến tranh đã chiến thắng.

Bài thơ không chỉ là lời thương tiếc dành cho một sinh linh bé nhỏ mà còn là bản cáo trạng đanh thép dành cho chiến tranh. Nó nhắc nhở chúng ta rằng, dù ai thắng hay thua, thì những đứa trẻ vô tội vẫn mãi mãi là những kẻ thất bại đầu tiên.

*

Nguyễn Vỹ – Nhà thơ, nhà báo kiên định với lý tưởng

Nguyễn Vỹ (1912 – 1971) là một nhà thơ, nhà báo nổi bật trong nền văn học Việt Nam thời tiền chiến. Ông không chỉ được biết đến qua hai bài thơ gây tiếng vang: Gởi Trương TửuSương rơi, mà còn ghi dấu ấn với nhiều tác phẩm đa dạng từ thơ ca, tiểu thuyết đến biên khảo.

Sinh tại Quảng Ngãi, Nguyễn Vỹ sớm bộc lộ tư tưởng yêu nước, từng nhiều lần bị bắt giam vì các hoạt động chống thực dân Pháp và phát xít Nhật. Ông cũng là người sáng lập nhiều tờ báo như Việt – Pháp, Tổ quốc, Dân chủ, Dân ta, trong đó tạp chí Phổ Thông được đánh giá cao về văn học và nghệ thuật.

Thơ Nguyễn Vỹ mang phong cách riêng biệt, thể nghiệm nhiều lối viết mới. Dù từng bị phê phán, nhưng ông vẫn kiên trì theo đuổi con đường sáng tạo, để lại dấu ấn với những tác phẩm thể hiện nỗi trăn trở về xã hội và vận mệnh con người.

Ông qua đời năm 1971 do tai nạn giao thông, khép lại cuộc đời một người cầm bút nhiệt huyết, dấn thân không ngừng vì văn chương và tư tưởng.

Viên Ngọc Quý.

Bạn cũng có thể thích..

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *