Hoa hồng Việt Nam
Một tờ báo có đăng tin các bác sĩ Phi-luật-tân vừa tuyên bố một số quân nhân Phi đã bị gái điếm Việt Nam truyền cho một chứng bịnh cực kỳ nguy hiểm. Các bác sĩ Phi đặt tên chứng bịnh ấy là: “Hoa hồng Việt Nam”. Huyền giận quá, viết nguệch ngoạc vài câu gởi gấp cho ông bệnh nhân Phi-luật-tân mắc chứng ác ôn và các cô gái điếm:
Hoa hồng Việt Nam!
Hoa hồng Việt Nam!
Này các cô ơi, “Hoa hồng Việt Nam” là cái giống hoa gì.
Mà bạn Đồng Minh Ma-ní bịt mũi, trố mắt, xầm xì hoảng hốt kêu rên?
“Hoa hồng Việt Nam”, ai trồng, ai cấy, ai gieo?
Ai vun, ai bới, ai tưới, ai xới, ai tâng tiu hồi nào?
“Hoa hồng Việt Nam” lấy giống từ đâu?
Giống Mỹ, giống Úc, giống Tây Âu hay Nhựt Bổn, Đại Hàn?
“Hoa hồng Việt Nam” phải chăng là “hoa” Huệ, “hoa” Lan?
“Hoa” Sương, “hoa” Tuyết, “hoa” Yến, “hoa” Loan, hoa điếm, hoa đàng.
“Hoa” Đô-la, hoa Bạc, chín mười ngàn một hoa?
Xưa nay sao không có giống hoa ấy ở vườn nhà,
Giờ đây nó mọc trên các toà nhà bin-đinh?
Trong các đống bùn sình,
Trong các ngõ hẻm, nhà lá, hôi rình mùi “hoa”?
“Hoa hồng Việt Nam” ối mẹ! ối cha!
Nó là cái giống hoa gì?
Nước Nam mình đâu có giống hoa ghê tởm kỳ lạ, Bà Nội ơi!
Giống hoa độc địa, ai nhập cảng vào đất Việt của tôi?
Rồi ai vu cho Việt Nam tôi sản xuất,
Úi chao ôi, tui hận, tui tức,
Tui bứt rứt,
Tui hậm hực,
Tui ậm ực,
Tui uất,
Tui uất lắm,
Ớ trời ơi là trời!
Đăng trên báo Tin sớm số 809, ngày 14-8-1967.
Nỗi Uất Hận Của Một Đóa Hoa
1. Khi Một Cái Tên Mang Đầy Sự Xúc Phạm
Bài thơ “Hoa hồng Việt Nam” của Nguyễn Vỹ được viết trong cơn giận dữ, khi những người bác sĩ Philippines gọi một căn bệnh lây lan từ những cô gái điếm Việt Nam là “Hoa hồng Việt Nam”. Một danh xưng lẽ ra phải mang vẻ đẹp thanh khiết, lại bị biến thành một biểu tượng của sự khinh miệt và nhục mạ.
“Hoa hồng Việt Nam!
Hoa hồng Việt Nam!”
Nhà thơ liên tục lặp lại cụm từ ấy, như để nhấn mạnh vào nỗi bức xúc, như để chất vấn xem rốt cuộc “hoa hồng Việt Nam” là gì, ai đã tạo ra nó, và ai đã dám gán ghép nó với đất nước này.
2. Ai Là Người Gieo Giống Cho Đóa Hoa?
Bài thơ không chỉ đơn thuần là một lời phản bác, mà còn là một chuỗi câu hỏi nhức nhối:
“Ai trồng, ai cấy, ai gieo?
Ai vun, ai bới, ai tưới, ai xới, ai tâng tiu hồi nào?”
Một câu hỏi nhưng không chỉ nhắm đến một đối tượng duy nhất. Nguyễn Vỹ không chỉ trích những cô gái điếm, mà đi sâu hơn để tìm hiểu nguyên nhân. Những người phụ nữ ấy có muốn trở thành “hoa” hay không? Ai đã đẩy họ vào con đường này?
Những cô gái bị gán cho cái tên “hoa hồng Việt Nam” ấy không phải tự nhiên mà có. Họ là hệ quả của chiến tranh, của sự nghèo đói, của những đổi chác nhục nhã mà những kẻ cầm quyền cùng quân đội ngoại bang đã dựng lên. Những kẻ từng giẫm nát đất nước này, gieo rắc đau thương, giờ đây lại phủi tay, đổ lỗi cho chính mảnh đất mà họ đã làm vấy bẩn.
3. Khi Một Danh Dự Bị Chà Đạp
Nguyễn Vỹ không chỉ đau đớn vì sự nhục mạ, mà còn phẫn uất trước cách mà thế giới nhìn vào Việt Nam:
“Nước Nam mình đâu có giống hoa ghê tởm kỳ lạ, Bà Nội ơi!
Giống hoa độc địa, ai nhập cảng vào đất Việt của tôi?”
Nhà thơ không ngừng tự vấn: Từ bao giờ Việt Nam lại bị đồng nhất với một biểu tượng đáng xấu hổ như vậy? Những bông hoa đẹp đẽ của quê hương – hoa Huệ, hoa Lan, hoa Sương, hoa Tuyết – chẳng lẽ lại bị thay thế bởi một thứ “hoa” bị rẻ rúng và ghê tởm?
Ông không chấp nhận để danh dự của đất nước bị bôi nhọ như vậy. Sự giận dữ của ông không phải chỉ là cảm xúc cá nhân, mà là sự phẫn uất thay cho cả một dân tộc.
4. Nỗi Hận Dâng Trào
Bài thơ kết lại bằng một loạt những tiếng kêu đầy bức bối:
“Úi chao ôi, tui hận, tui tức,
Tui bứt rứt,
Tui hậm hực,
Tui ậm ực,
Tui uất,
Tui uất lắm,
Ớ trời ơi là trời!”
Không còn là những câu thơ trau chuốt, mà là những tiếng thét, những âm thanh bật ra từ lồng ngực đang căng tràn căm phẫn. Nguyễn Vỹ đã viết bằng tất cả sự bức bối của một người không thể chịu đựng thêm được nữa.
5. Lời Phản Kháng Của Một Kẻ Yêu Nước
“Hoa hồng Việt Nam” không chỉ là một bài thơ phản đối sự bôi nhọ danh dự, mà còn là một lời tuyên chiến với những kẻ đã góp phần tạo nên bi kịch này. Nguyễn Vỹ không chỉ đơn thuần trách móc, mà còn đòi lại công bằng cho những con người đã bị xã hội ruồng bỏ.
Bài thơ là một cú đánh thẳng vào những định kiến bất công. Nó không phủ nhận sự tồn tại của những mảnh đời tăm tối, nhưng nó cũng không chấp nhận để một dân tộc bị gán ghép bởi những gì không thuộc về họ. Đó là tiếng nói của một con người yêu nước, một kẻ đau đáu trước danh dự của quê hương, và một tâm hồn không chấp nhận sự khinh miệt từ bất kỳ ai.
*
Nguyễn Vỹ – Nhà thơ, nhà báo kiên định với lý tưởng
Nguyễn Vỹ (1912 – 1971) là một nhà thơ, nhà báo nổi bật trong nền văn học Việt Nam thời tiền chiến. Ông không chỉ được biết đến qua hai bài thơ gây tiếng vang: Gởi Trương Tửu và Sương rơi, mà còn ghi dấu ấn với nhiều tác phẩm đa dạng từ thơ ca, tiểu thuyết đến biên khảo.
Sinh tại Quảng Ngãi, Nguyễn Vỹ sớm bộc lộ tư tưởng yêu nước, từng nhiều lần bị bắt giam vì các hoạt động chống thực dân Pháp và phát xít Nhật. Ông cũng là người sáng lập nhiều tờ báo như Việt – Pháp, Tổ quốc, Dân chủ, Dân ta, trong đó tạp chí Phổ Thông được đánh giá cao về văn học và nghệ thuật.
Thơ Nguyễn Vỹ mang phong cách riêng biệt, thể nghiệm nhiều lối viết mới. Dù từng bị phê phán, nhưng ông vẫn kiên trì theo đuổi con đường sáng tạo, để lại dấu ấn với những tác phẩm thể hiện nỗi trăn trở về xã hội và vận mệnh con người.
Ông qua đời năm 1971 do tai nạn giao thông, khép lại cuộc đời một người cầm bút nhiệt huyết, dấn thân không ngừng vì văn chương và tư tưởng.
Viên Ngọc Quý.