Cảm nhận bài thơ: Hương xuân – Huy Thông

Hương xuân

Cảnh vật thôi trong sương mờ lẩn dáng
Vàng anh trên cành liễu thiết tha than
Trong vườn xanh một nụ hồng như pha ráng
Và, từng đàn, bướm rỡn trên dàn hoa

Nhưng, rồi đây, dưới bầu trời chói lọi
Tưng bừng và điềm tĩnh, lửa hè nung
Rồi, ảm đạm, thu về cùng mây tối
Rồi đông sang với gió bấc lạnh lùng

Đông qua. Cùng hoa thắm, lá tươi, xuân đã lại
Nhưng em! Xuân em tươi thắm được mấy lần?
Vậy thì, ngày xanh mau đắm say tình ái
Để tim em rồi mãi đượm hương xuân

*

Hương Xuân – Xuân Của Đất Trời Và Xuân Của Lòng Người

Bài thơ Hương Xuân của Huy Thông không chỉ đơn thuần là một bức tranh thiên nhiên tươi đẹp mà còn chứa đựng một thông điệp sâu sắc về sự trôi chảy của thời gian, sự hữu hạn của tuổi xuân và lời nhắn nhủ hãy sống trọn vẹn trong những khoảnh khắc đẹp nhất của cuộc đời.

Sự luân hồi của thiên nhiên

Bốn câu thơ đầu mở ra một bức tranh mùa xuân đầy sức sống:

Cảnh vật thôi trong sương mờ lẩn dáng
Vàng anh trên cành liễu thiết tha than
Trong vườn xanh một nụ hồng như pha ráng
Và, từng đàn, bướm rỡn trên dàn hoa

Những hình ảnh “sương mờ”, “vàng anh”, “nụ hồng”, “bướm rỡn” không chỉ miêu tả vẻ đẹp tinh khôi, dịu dàng của mùa xuân mà còn gợi lên một cảm giác mong manh, thoáng chốc. Mùa xuân đến, mang theo sắc hoa rực rỡ, âm thanh rộn ràng, những tia nắng trong trẻo, nhưng rồi cũng sẽ qua đi.

Nhưng, rồi đây, dưới bầu trời chói lọi
Tưng bừng và điềm tĩnh, lửa hè nung
Rồi, ảm đạm, thu về cùng mây tối
Rồi đông sang với gió bấc lạnh lùng

Huy Thông đã khắc họa vòng tuần hoàn của bốn mùa: xuân – hạ – thu – đông. Sau những ngày xuân dịu dàng sẽ là cái nắng gay gắt của mùa hạ, rồi đến sự u buồn, ảm đạm của mùa thu và cuối cùng là cái lạnh lẽo, khắc nghiệt của mùa đông. Thiên nhiên cứ thế vận hành, không dừng lại, không chờ đợi ai.

Xuân của lòng người – Hữu hạn và mong manh

Nếu xuân của đất trời cứ thế tuần hoàn, hết đi rồi lại trở về, thì xuân của lòng người lại ngắn ngủi vô cùng. Đó chính là điều Huy Thông muốn nhấn mạnh trong hai câu thơ cuối:

Đông qua. Cùng hoa thắm, lá tươi, xuân đã lại
Nhưng em! Xuân em tươi thắm được mấy lần?

Câu hỏi tu từ “Xuân em tươi thắm được mấy lần?” cất lên đầy xót xa, nhắc nhở rằng tuổi xuân của con người không giống như xuân của đất trời – một khi đã qua đi thì không thể nào trở lại. Từ đó, bài thơ trở thành một lời nhắn nhủ tha thiết:

Vậy thì, ngày xanh mau đắm say tình ái
Để tim em rồi mãi đượm hương xuân

Lời thơ như một lời khuyên chân thành: hãy sống trọn vẹn những ngày đẹp nhất của tuổi trẻ, hãy yêu thương, hãy tận hưởng những xúc cảm nồng nàn khi còn có thể. Vì chỉ có tình yêu và những rung động chân thành mới có thể giúp ta giữ lại được “hương xuân” trong trái tim, ngay cả khi năm tháng đã qua đi.

Lời nhắn nhủ đầy nhân văn của Huy Thông

Bài thơ Hương Xuân không chỉ là một bản hòa ca về thiên nhiên mà còn là một triết lý về cuộc đời. Mùa xuân của đất trời có thể trở lại năm này qua năm khác, nhưng tuổi xuân của con người thì chỉ có một lần. Chính vì thế, hãy trân trọng, đừng để lãng phí những tháng ngày tươi đẹp nhất của đời mình.

Lời thơ của Huy Thông không vội vã thúc giục, cũng không bi lụy trước sự trôi đi của thời gian, mà là một sự nhắc nhở dịu dàng: hãy để trái tim luôn ngập tràn những điều đẹp đẽ, để tuổi xuân không chỉ là những tháng năm đã sống, mà là những kỷ niệm đượm hương sắc mãi mãi không phai mờ.

*

Phạm Huy Thông (1916–1988) – Nhà thơ, nhà giáo, nhà khoa học xã hội Việt Nam

Phạm Huy Thông sinh ngày 22 tháng 11 năm 1916 tại Hà Nội, trong một gia đình kinh doanh lớn, giàu tinh thần dân tộc. Ông là hậu duệ của danh tướng Phạm Ngũ Lão, quê gốc ở Hưng Yên.

Ngay từ nhỏ, Phạm Huy Thông đã bộc lộ tài năng xuất sắc. Ông nổi tiếng trong phong trào Thơ Mới với bài Tiếng địch sông Ô khi mới 16 tuổi. Năm 21 tuổi, ông tốt nghiệp cử nhân Luật tại Viện Đại học Đông Dương, sau đó sang Pháp tiếp tục học tập và trở thành Tiến sĩ Luật, Thạc sĩ Sử – Địa khi mới 26 tuổi. Ông từng là Giáo sư, Ủy viên Hội đồng Giáo dục tối cao của Pháp và có thời gian giúp việc Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Hội nghị Fontainebleau năm 1946.

Sau khi trở về Việt Nam, ông giữ nhiều trọng trách như Hiệu trưởng Trường Đại học Sư phạm Hà Nội (1956–1966), Viện trưởng Viện Khảo cổ học (1967–1988), Đại biểu Quốc hội khóa II, III. Ông có nhiều đóng góp trong nghiên cứu lịch sử, khảo cổ học với các công trình tiêu biểu như Thời đại các Vua Hùng dựng nước, Khảo cổ học 10 thế kỷ sau Công nguyên, Khảo cổ học với văn minh thời Trần.

Bên cạnh sự nghiệp khoa học, ông còn là nhà thơ, có thơ được nhắc đến trong Thi nhân Việt Nam của Hoài Thanh – Hoài Chân. Năm 2000, ông được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh. Tên ông được đặt cho nhiều con đường tại Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh.

Ông qua đời ngày 21 tháng 6 năm 1988 tại Hà Nội.

Viên Ngọc Quý.

Bạn cũng có thể thích..

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *