Huyền Trân công chúa
Tặng Bà Laurence de la Pommeraye
Fare thee well! And, if forever,
Still, for ever fare thee well!
(Lord Byron)
Xin chia tay! và, nếu là: mãi mãi
Thêm một lần, xin mãi mãi chia tay!
Trần Huyền Trân – Trần Khắc Chung
Các cung nga Chiêm – Các cung nga Việt
Cung nga Việt:
Chân trời xa ánh bình minh phơn phớt,
Than ôi, sương lam tía đã dần tàn!
Cung nga Chiêm:
Sương lam tía nơi chân trời đã nhợt,
Thuyền Quân Vương lách sóng lại Đồ Bàn.
Cung nga Việt:
Thuyền chúa Chiêm dần trôi trên nước lặng…
Dưới bờ mây Công Chúa sắp ra đị
Cung nga Chiêm:
Thuyền Quân Vương đã dần trôi nẻo vắng,
Tháp Chàm xa đưa Nữ Chúa vu quy.
Khắc Chung:
Huyền Trân ơi! Nàng sắp phải vu quy,
Sắp cùng ta phải mãi mãi phân ly!
Này trông, nàng! Thuyền Chiêm trên biển rộng,
Sắp hàng đi tới chân trời mơ mộng,
Nơi vừng ô, sáng sáng, pha hồng tươi.
Cờ tranh nhau phấp phới trên nền trời,
Và như du, nhịp nhàng, chèo khua sóng…
Tiếng loa xa còn mơ màng đồng vọng,
Nhưng dãy thuyền gió quyến vẫn dần trôi,
Đưa Huyền trân về Chiêm Quốc, hỡi ôi!
Cung nga Việt:
Nỗi phân ly khiến lòng ta như tan nát!
Ôi!
Công Chúa Huyền Trân
Trong giây lát,
Sẽ dần dần
Cùng thuyền Chiêm cùng trôi, rồi cùng khuất,
Nơi bóng đen, chiều chiều, gieo u uất!
Cung nga Chiêm:
Lệnh Bà ôi!
Trên biển mờ, thuyền Chúa đã xa trôi,
Cùng chúng tôi,
Xin lệnh Bà ngự giá xuống thuyền thôi!
Khắc Chung:
Than ôi!
Cung nga Việt:
Than ôi!
Cung nga Chiêm:
Xin lệnh Bà ngự giá xuống thuyền thôi,
Vì biển mờ thuyền Chúa đã xa trôi…
Khắc Chung:
Huyền Trân ơi!
Xin mãi mãi chia phôi!
Nơi xa vời,
Thuyền thắm sắp êm trôi…
Và hình em, trong giây phút, em ơi!
Sẽ dần dần… dần lẩn dưới chân trời!
Cung nga Việt:
Cung Tần Hương từ nay sẽ bặt
Tiếng huân ai dìu dặt canh chầy.
Vườn Vũ Ngọc từ nay hàng trúc
Nhớ tiếng người nhịp khúc đờn tranh.
Khắc Chung:
Mà từ nay khi oanh gọi bạn,
Ta cũng thôi gẩy bản Phượng Hoàng,
Vì gác tía mơ màng gió thổi,
Còn đâu, trời đất hỡi!
Bóng Huyền Trân!
Cung nga Việt:
Bóng Huyền Trân?
Còn đâu nữa, bóng Huyền Trân,
Khi êm ái,
Chiếc thuyền son quay lái
Đè sóng xanh mà lướt thẳng tới Đồ Bàn!
Huyền Trân:
Hồng nhan…! Ôi kiếp hồng nhan!
Cung nga Chiêm:
Xin lệnh Bà hãy quên sầu, nguôi lệ,
Cùng chúng tôi vui bước xuống thuyền hoa!
Mặt trời rắc kim sa trên mặt bể,
Và nâng chèo, quân hát tiếng vang ca.
Huyền Trân:
Ta chẳng muốn theo ai về Chiêm Quốc!
Không! không! Ta chẳng hứng theo ai đi,
Vượt bao núi, bao non, bao từng nước
Tới rừng hoang trông ngẩn lũ man di!
Dù Chế Vương ân cần hay cưỡng bách
Huyền Trân quyết chẳng tới Đồ Bàn xa…
Vì các em khi muôn trùng xa cách,
Biết cùng ai trò chuyện buổi ô tà?
Dù Vua Cha phải lôi đình nổi giận,
Ta cũng không đặt bước xuống thuyền hoa,
Thôi trông cung Vân Hồng, lầu Ngọc Phấn,
Nơi các em ngày tháng nhớ thương ta.
Các em ơi! Vì đâu ta ủ rũ?
Kìa! Non cao, vi vút gió gọi sầu!
Trôi đi, thuyền! Và, chèo đi, thuỷ thủ!
Vì Huyền Trân chẳng bước xuống thuyền đâu!
Cung Nga Việt:
Đừng bước xuống thuyền Chiêm, Công Chúa hỡi!
Cung Nga Chiêm:
Nơi xa xa thuyền Chúa đã xa dần…
Hãy xuống thuyền cho thuyền trôi theo gió thổi!
Khắc Chung:
Đi đi! Công Chúa hỡi!
Em Huyền Trân!
Em đi đi cho anh vẹn chữ trung thần!
Huyền Trân:
Ta đã quyết, lòng ơi, ta đã quyết
Không bao giờ rời bỏ đất Thăng Long
Nơi ta nghe thấy tình yêu tha thiết
Lần đầu tiên réo rắt tiếng mơ mòng
Ta không xa nơi bao lần ngây ngất,
Nơi bao lần lưu luyến bóng tình quân,
Không xa nơi còn mơ màng phảng phất
Tiếng người yêu say hát khúc ái ân.
Ta không xa giải Ngân Trì trong vắt
Đã từng phen lả lướt in hình ai
Cung Tần Hương nơi cầm chiều hiu hắt
Du dương ca bên dạ khách kim hài.
Tình quân ơi! Vì đâu ta ủ rũ?
Kìa! Non cao, vi vút gió gọi sầu!
Trôi đi, thuyền! Và, chèo đi, thuỷ thủ!
Vì Huyền Trân chẳng bước xuống thuyền đâu!
Cung Nga Việt:
Đừng bước xuống thuyền Chiêm, Công Chúa hỡi!
Cung Nga Chiêm:
Nơi xa xa thuyền Chúa đã xa dần…
Hãy xuống thuyền cho thuyền trôi theo gió thổi!
Khắc Chung:
Đi đi! Công Chúa hỡi!
Em Huyền Trân!
Em đi đi cho anh vẹn chữ trung thần!
Huyền Trân:
Chàng đã muốn ta xa rời đất Việt,
Thì, chàng ơi! Xin vĩnh biệt từ nay!
Mành tân hôn trùng trình trên sóng biếc…
Bơi đi, chèo! Ta bước xuống thuyền đây.
*
Nam Quốc hỡi! từ nay vĩnh biệt!
Vì, muôn năm ta quyết chẳng về…
Và, từ nay, ánh hè khi tắt,
Mây lung linh vơ vất đáy hồ,
Ta thôi ngắm, mơ hồ, trăng mọc,
Tắm sắc xanh màn ngọc bên lầu.
Khi thu sang, dưới bầu mây phủ,
Khom lưng mềm, liễu rũ ven sông,
Ta thôi để thuyền bồng tha thướt
Vẩn vơ bơi trên nước Nhị Hà.
Hỡi những đêm sao ngà lộng ánh,
Ta vin ngâu mơ cạnh tình quân!
Những chiều thắm gió huân nhẹ chuyển,
Ta ngây trong khói quyện đỉnh trầm!
Hỡi những nơi còn thầm vương vấn,
Ánh hương tình đôi bạn xa xôi!
Xin vĩnh biệt! Than ôi! Vĩnh biệt!
Vì, muôn năm ta quyết chẳng về…
Khắc Chung:
Tim đê mê
Như âm u, như đau đớn, như nặng nề.
Huyền Trân:
Thuyền gần đi… Ta xuống thuyền… Thuyền quay lái
Ngậm đau thương, ta nghẹn sấn núi sông Hời!
Khắc Chung:
Xin chia phôi!
Thuyền yểu điệu sắp tròng trành trên Nam Hải.
Nàng xa trôi…
Huyền Trân, Công Chúa Huyền Trân! nàng đứng lại!
Nhưng, than ôi!
Bóng lụa khuất trên thuyền hồng đương quay lái!
Cung nga Việt:
Thuyền xa trôi! Công Chúa cũng xa trôi
Khắc Chung:
Thuyền đi mãi…
Và, Huyền Trân,
Trong khoang thơm, mỗi lúc một xa dần…
Cung nga Việt:
Thuyền đi mãi…
Và, đồng thanh:
Ai êm ca một khúc hát Chiêm Thành…
*
(Yên lặng một hồi lâu. Bỗng Khắc Chung dang tay rồi tha thiết)
Khắc Chung:
Công Chúa đã đi rồi, non nước hỡi!
Hỡi gió nặng, từng cao, cao tiếng thổi,
Lời vang như hú bão dưới kinh thành!
Bể trùng trùng điệp điệp! Vững tung hoành!
Non chắn sóng muôn năm, muôn năm vẫn
Ngắm mây huyền vòm lam kiêu hãnh cẩn…!
Còn đợi chờ chi nữa, cảnh mênh mông…
Mà chưa lan…
Mà chưa tan…
Mà chưa biến ra hư không?
Cung nga Việt:
Cảnh mênh mông! còn đợi chờ chi nữa…?
Vì, trời ơi…?
Huyền Trân… Công Chúa…
Đã đi rồi!
18-4-1935
*
Huyền Trân – Duyên Nợ Một Kiếp Hồng Nhan
Hơn sáu trăm năm đã trôi qua, nhưng câu chuyện về Công chúa Huyền Trân vẫn còn vang vọng như một khúc bi ca não lòng giữa sử Việt. Nhà thơ Huy Thông, bằng những vần thơ trác tuyệt, đã dựng lại khoảnh khắc chia ly đầy bi thương ấy trong bài thơ Huyền Trân Công Chúa. Một bài thơ không chỉ tái hiện nỗi đau của một người con gái bị ràng buộc bởi nghĩa vụ quốc gia, mà còn là tiếng lòng trăn trở về thân phận hồng nhan trong vòng xoáy của quyền lực và thời cuộc.
“Fare thee well! And, if forever,
Still, for ever fare thee well!”
(Lord Byron)
“Xin chia tay! và, nếu là: mãi mãi
Thêm một lần, xin mãi mãi chia tay!”
Hai câu thơ mở đầu, được dịch từ nguyên tác của thi hào Lord Byron, vang lên như một lời tiễn biệt đầy u sầu. Nếu đã phải chia tay, thì xin hãy mãi mãi chia tay, không ngoảnh lại, không hi vọng. Câu thơ như một điềm báo cho số phận nghiệt ngã của Công chúa Huyền Trân – người con gái rời xa quê hương mà biết trước rằng mình sẽ chẳng bao giờ có cơ hội quay về. Trong không gian bảng lảng sương lam của buổi tiễn đưa, lời thơ ấy trở thành một nốt nhạc trầm ngân, báo hiệu bi kịch của một kiếp hồng nhan bị cuốn vào dòng chảy vô tình của lịch sử.
1. Tình yêu hay nghĩa vụ – Huyền Trân giữa hai ngả đường
Bài thơ mở ra giữa ranh giới của ánh bình minh và màn sương sắp tàn, như chính cuộc đời Huyền Trân đang đứng giữa một quãng giao thời đầy đau đớn. Những cung nga Việt, cung nga Chiêm, Trần Khắc Chung – mỗi người một tâm trạng, nhưng tất cả đều xoáy sâu vào nỗi buồn ly biệt.
Là công chúa của Đại Việt, nàng không có quyền chọn lựa số phận của mình. Để đổi lấy hai châu Ô, Lý, nàng phải rời xa mảnh đất nơi mình đã sinh ra, xa gia đình, xa người thương. Trong nỗi dằn vặt và đau đớn, nàng đã từng cất lên tiếng lòng phản kháng:
“Ta đã quyết, lòng ơi, ta đã quyết
Không bao giờ rời bỏ đất Thăng Long”
Nhưng rồi, tất cả đều vô ích. Dẫu nàng có khóc, có van xin, con thuyền vẫn lặng lẽ trôi. Nàng không thể chống lại ý chỉ của Vua Cha, càng không thể quay lưng với vận mệnh của quốc gia.
2. Trần Khắc Chung – Chữ “trung thần” hay mối tình câm lặng?
Trần Khắc Chung – vị đại thần đứng giữa tình yêu và trung quân, giữa trái tim và lý trí. Ông không thể giữ nàng lại, cũng không thể thay đổi được sự sắp đặt nghiệt ngã của triều đình. Lời từ biệt của ông vừa là lời tiễn đưa người con gái mình yêu, vừa là sự chấp nhận đầy đau đớn của một bề tôi trung thành:
“Đi đi! Công Chúa hỡi!
Em Huyền Trân!
Em đi đi cho anh vẹn chữ trung thần!”
Chữ “trung thần” ấy như một lưỡi dao sắc lạnh, cắt đứt tất cả những gì còn sót lại giữa họ. Tình yêu, dù sâu đậm đến đâu, cũng không thể đứng vững trước sóng gió chính trị. Câu thơ vang lên như một lời nhắc nhở chua xót rằng, trong thế giới của quyền lực, con người chỉ là những quân cờ, dù muốn hay không cũng phải chấp nhận số phận của mình.
3. Huyền Trân – Một kiếp hồng nhan bạc phận
Huyền Trân không muốn xuống thuyền. Nàng đã từng giãy giụa, đã từng kháng cự. Nhưng đến cuối cùng, nàng vẫn phải cúi đầu, phải bước lên con thuyền đưa mình đến một nơi xa lạ. Câu thơ nàng cất lên trong khoảnh khắc cuối cùng không chỉ là tiếng thở dài, mà còn là lời tiễn biệt với tất cả những gì thân thương nhất:
“Nam Quốc hỡi! từ nay vĩnh biệt!
Vì, muôn năm ta quyết chẳng về…”
Nàng biết, bước đi này là bước đi vĩnh viễn. Một lần ra đi là mãi mãi. Dẫu sau này nàng có sống ra sao, có vui hay buồn, thì cũng không còn ai nhắc đến nàng như một công chúa của Đại Việt nữa.
Và rồi, khi thuyền khuất bóng, chỉ còn lại Trần Khắc Chung cùng các cung nữ đứng lặng trên bến sông, nhìn theo. Họ bất lực, họ đau đớn, nhưng chẳng thể làm gì. Chỉ có gió thổi, sóng vỗ, và tiếng hát Chiêm Thành vang vọng trong không trung, như một sự trớ trêu nghiệt ngã của số phận.
4. Thông điệp từ bài thơ – Sự hy sinh thầm lặng và nỗi đau của những người phụ nữ trong lịch sử
Bài thơ Huyền Trân Công Chúa không chỉ khắc họa bi kịch của một cá nhân mà còn phản ánh thân phận của biết bao người phụ nữ trong lịch sử. Họ bị ràng buộc bởi những quyết định chính trị, bị đặt lên bàn cân để đổi lấy hòa bình và lãnh thổ. Tình yêu, hạnh phúc riêng tư của họ có lẽ chưa bao giờ là điều quan trọng nhất trong những cuộc trao đổi ấy.
Nhưng điều khiến bài thơ trở nên sâu sắc và ám ảnh chính là cách Huy Thông thể hiện nỗi đau ấy bằng ngôn từ tinh tế và giàu cảm xúc. Ông không chỉ kể chuyện mà còn để nhân vật tự cất lên tiếng lòng của mình, để người đọc cảm nhận được từng giọt nước mắt, từng nhịp tim thổn thức của họ.
Hai câu thơ của Lord Byron xuất hiện ở đầu bài như một điềm báo, nhưng khi đọc đến cuối, ta mới thực sự hiểu thấm thía ý nghĩa của nó. “Fare thee well!” – tạm biệt nhé, và nếu đây là lần chia xa cuối cùng, thì xin hãy mãi mãi chia xa. Một lời từ biệt không có ngày trở lại, một sự chia ly không còn cơ hội hàn gắn.
Bài thơ khép lại với một khoảng lặng, nhưng cũng là một nốt nhấn mạnh mẽ trong tâm trí người đọc. Hình ảnh con thuyền dần xa, hình bóng Huyền Trân khuất dạng, tiếng vọng cuối cùng của Trần Khắc Chung… Tất cả như hòa vào gió, vào sóng, để rồi vang mãi trong dòng chảy của lịch sử.
Lời kết
Có lẽ, bi kịch lớn nhất của Huyền Trân không chỉ là việc bị gả đi xa, mà là việc không ai thật sự đứng về phía nàng, không ai có thể cứu nàng khỏi số phận đã được an bài. Nàng đã hy sinh, đã chấp nhận rời bỏ tất cả, nhưng rốt cuộc, khi lịch sử tiếp tục lật trang, nàng chỉ còn là một cái tên trong những câu chuyện cũ.
Nhưng dẫu vậy, vần thơ của Huy Thông đã làm sống lại hình ảnh nàng trong tâm trí người đọc, để chúng ta không chỉ nhớ đến một công chúa bị gả đi vì lợi ích quốc gia, mà còn nhớ đến một con người, một trái tim từng khao khát yêu và được yêu, từng đấu tranh nhưng rồi cũng phải khuất phục trước thời cuộc.
Huyền Trân – một đóa hoa đẹp nhưng mong manh, một cuộc đời đầy vinh quang nhưng cũng ngập tràn bi thương.
*
Phạm Huy Thông (1916–1988) – Nhà thơ, nhà giáo, nhà khoa học xã hội Việt Nam
Phạm Huy Thông sinh ngày 22 tháng 11 năm 1916 tại Hà Nội, trong một gia đình kinh doanh lớn, giàu tinh thần dân tộc. Ông là hậu duệ của danh tướng Phạm Ngũ Lão, quê gốc ở Hưng Yên.
Ngay từ nhỏ, Phạm Huy Thông đã bộc lộ tài năng xuất sắc. Ông nổi tiếng trong phong trào Thơ Mới với bài Tiếng địch sông Ô khi mới 16 tuổi. Năm 21 tuổi, ông tốt nghiệp cử nhân Luật tại Viện Đại học Đông Dương, sau đó sang Pháp tiếp tục học tập và trở thành Tiến sĩ Luật, Thạc sĩ Sử – Địa khi mới 26 tuổi. Ông từng là Giáo sư, Ủy viên Hội đồng Giáo dục tối cao của Pháp và có thời gian giúp việc Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Hội nghị Fontainebleau năm 1946.
Sau khi trở về Việt Nam, ông giữ nhiều trọng trách như Hiệu trưởng Trường Đại học Sư phạm Hà Nội (1956–1966), Viện trưởng Viện Khảo cổ học (1967–1988), Đại biểu Quốc hội khóa II, III. Ông có nhiều đóng góp trong nghiên cứu lịch sử, khảo cổ học với các công trình tiêu biểu như Thời đại các Vua Hùng dựng nước, Khảo cổ học 10 thế kỷ sau Công nguyên, Khảo cổ học với văn minh thời Trần.
Bên cạnh sự nghiệp khoa học, ông còn là nhà thơ, có thơ được nhắc đến trong Thi nhân Việt Nam của Hoài Thanh – Hoài Chân. Năm 2000, ông được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh. Tên ông được đặt cho nhiều con đường tại Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh.
Ông qua đời ngày 21 tháng 6 năm 1988 tại Hà Nội.
Viên Ngọc Quý.