Kể chuyện Vũ Lăng
Người đàn bà ấy áo xanh,
Chiều chiều bổ củi nghiêng mình xuống nương,
Nhà sàn chìm giữa rừng sương,
Đêm đêm lửa bếp soi guồng tơ quay.
Chuyện rằng: “Kể đã lâu ngày
Đời tôi từng cũng cấy cày có đôi.
Chồng xưa vạm vỡ con người,
Ăn cơm bắp, phát cây đồi quanh năm.
Vẫn nghèo vì ở Vũ Lăng,
Ruộng nương ai cũng phải cầm nộp sưu.
Thế rồi có một buổi chiều,
Chồng tôi cùng với rất nhiều đàn ông,
Giắt con dao đi mấy đêm ròng,
Khi về cờ đỏ cả vùng rừng cây,
Khoe rằng: “Đã giết được Tây,
Ruộng không thuế nữa, cấy cày tự do”,
Tôi mừng, nhưng vẫn còn lo,
– Tây thì ác lắm, sao ngơ tội mình?
Nhưng chồng tôi đã cười khinh:
“Nó còn thua Nhật đánh mình làm sao?
Huống chỉ cả Bắc Sơn vào
Phất cờ khởi nghĩa Tây nào dám he?”
Tôi yên lòng một đêm kia
Lính đâu dồn dập từ khe núi vào,
Vũ Lăng chả cứ nhà nào
Già, trẻ, trai, gái xích vào một dây!
Chồng tôi máu đẫm cánh tay,
Thừng gai trói chặt từ đây… lao tù!”
Nghẹn ngào bỏ lỗi guồng tơ,
Người đàn bà ấy thẫn thờ ngừng tay,
Thế rồi từ bấy đến nay,
Tám năm vất vả nuôi bầy con thơ.
Một mình bừa sớm, cấy trưa,
Đêm ru con đói lại vừa kéo bông.
Xóm làng đi hết đàn ông
Đàn bà heo hút sống trong thẳm rừng.
Trải bao kinh sợ hãi hùng,
Phần lo Tây bắt, phần không cửa nhà.
Tới ngày khởi nghĩa gần, xa
Rừng tươi lần nữa bóng cờ vàng sao.
Có hai con lớn cùng vào
Thanh niên, du kích làm bao việc làng.
Đồn rằng Tây đánh lan tràn,
Con xin vào Vệ quốc đoàn lại… đi!
Bếp sàn hiu hắt gió khuya
Bập bùng ánh lửa guồng xe quay đều.
Đời tôi nay đã già nhiều,
Còn hai mẫu ruộng sớm chiều một thân.
Xóm làng vui được quây quần,
Không lo trốn tránh vì quân săn người,
Vũ Lăng ai cũng như ai,
Chồng đi tù chết, con trai xa nhà.
Làng tôi còn những đàn bà,
Với nương cấy bắp, với mùa tắm tơ
Âm thầm gió hắt lửa mờ,
Núi rừng im ngủ giấc mơ lạnh lùng.
Chuyện tản người vẫn ngồi chong
Sè sè guồng sợi ánh hồng vạc than.
*
Người đàn bà Vũ Lăng – bóng dáng kiên cường giữa núi rừng
Trong những câu chuyện về chiến tranh, ta thường nhắc đến những người lính ngoài chiến tuyến, những người đã cầm súng đánh đuổi quân thù. Nhưng phía sau họ, nơi thẳm sâu trong rừng núi, có những người đàn bà lặng lẽ gánh trên vai cả một gia đình, một bản làng, một quê hương. Bài thơ Kể chuyện Vũ Lăng của Anh Thơ là một khúc tâm sự đầy xúc động về những người phụ nữ ấy – những con người tảo tần, âm thầm nhưng kiên cường trước thời cuộc.
Bài thơ mở đầu với hình ảnh người đàn bà mặc áo xanh, chiều chiều bổ củi, đêm đêm quay tơ, như một vòng đời bình dị, lặng lẽ. Nhưng đằng sau sự bình lặng ấy là một câu chuyện không bình lặng chút nào. Chị kể về cuộc đời mình, về người chồng từng là một người đàn ông vạm vỡ, sống cuộc đời kham khổ nơi vùng núi Vũ Lăng. Người chồng ấy đã dấn thân vào cuộc khởi nghĩa, mang theo khát vọng giành lại tự do cho dân làng:
“Thế rồi có một buổi chiều,
Chồng tôi cùng với rất nhiều đàn ông,
Giắt con dao đi mấy đêm ròng,
Khi về cờ đỏ cả vùng rừng cây,
Khoe rằng: ‘Đã giết được Tây,
Ruộng không thuế nữa, cấy cày tự do.'”
Nhưng niềm vui chưa kịp trọn vẹn, thì đau thương đã ập tới. Người chồng bị bắt, bị trói nghiến bằng thừng gai và đày đi lao tù. Sự tàn khốc của chiến tranh không chỉ lấy đi người đàn ông trụ cột, mà còn đẩy những người phụ nữ như chị vào cảnh đơn độc, phải tự mình nuôi con, tự mình gánh vác cả gia đình:
“Tám năm vất vả nuôi bầy con thơ.
Một mình bừa sớm, cấy trưa,
Đêm ru con đói lại vừa kéo bông.”
Không chỉ có chị, mà cả vùng Vũ Lăng giờ đây chỉ còn lại những người đàn bà. Họ sống heo hút giữa rừng thẳm, giữa những đêm dài lạnh lẽo, vừa vật lộn với miếng ăn, vừa đối mặt với nỗi sợ hãi khi quân thù có thể đến bất cứ lúc nào. Nhưng rồi, khởi nghĩa lại bùng lên, những lá cờ đỏ lại phấp phới giữa núi rừng, và giờ đây, đến lượt các con chị lên đường ra trận.
Những người đàn bà Vũ Lăng không khóc, cũng không than trách số phận. Họ chỉ lặng lẽ tiếp tục cuộc sống của mình, với guồng tơ, với mảnh nương, với những đêm dài thắp lửa. Câu thơ cuối kết lại bài thơ bằng một hình ảnh buồn nhưng đầy ám ảnh:
“Chuyện tản người vẫn ngồi chong
Sè sè guồng sợi ánh hồng vạc than.”
Bài thơ của Anh Thơ không chỉ kể về một số phận, mà là câu chuyện chung của biết bao người phụ nữ Việt Nam trong thời chiến. Họ mất chồng, mất con, nhưng không mất đi ý chí. Họ không ra trận, nhưng vẫn là những chiến binh thầm lặng, cống hiến cả cuộc đời cho quê hương.
“Kể chuyện Vũ Lăng” là một khúc bi tráng giữa núi rừng, là lời kể của những người phụ nữ tưởng như bé nhỏ nhưng lại mang trong mình một sức sống phi thường. Và cũng là một bài ca ngợi những con người mà lịch sử không ghi danh, nhưng vẫn mãi mãi xứng đáng được tôn vinh.
*
Nhà thơ Anh Thơ – Người vẽ tranh quê bằng thơ
Anh Thơ (1918 – 2005), tên thật là Vương Kiều Ân, là một trong những nữ thi sĩ tiêu biểu của văn học Việt Nam hiện đại. Bà nổi tiếng từ năm 17 tuổi với tập thơ Bức tranh quê, đoạt giải khuyến khích của Tự Lực Văn Đoàn, mở ra một hướng đi riêng trong phong trào Thơ mới: thơ về nông thôn, thiên nhiên Bắc Bộ với những hình ảnh bình dị, đầy chất trữ tình.
Sinh ra trong một gia đình Nho học, cuộc sống kín cổng cao tường đã hun đúc trong bà một tâm hồn nhạy cảm, luôn khát khao tự do. Những câu thơ của Anh Thơ không chỉ vẽ nên bức tranh làng quê thanh bình mà còn phản ánh nỗi niềm sâu lắng của người phụ nữ trước những ràng buộc xã hội.
Sau Cách mạng tháng Tám, bà tham gia Việt Minh, giữ nhiều trọng trách trong Hội Phụ nữ, tiếp tục sáng tác thơ ca ngợi người phụ nữ hậu phương, vẻ đẹp cuộc sống mới và tinh thần đấu tranh anh dũng của dân tộc. Bà là một trong những hội viên đầu tiên của Hội Nhà văn Việt Nam, từng giữ vị trí ủy viên Ban chấp hành Hội.
Với những đóng góp lớn cho văn học, Anh Thơ được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật năm 2007. Những vần thơ của bà vẫn mãi ngân vang, gợi lên trong lòng người đọc tình yêu quê hương tha thiết:
“Quán tranh đứng im lìm trong vắng lặng
Bên chòm xoan hoa tím rụng tơi bời…”
(Chiều xuân)
Viên Ngọc Quý.