Không có quyền mệt mỏi
Tôi ạ, anh không bao giờ có quyền mệt mỏi
Dù rồi mùa toóc rạ đàn chim đã bay đi, hè đã trút ngọn nắng cuối cùng
Dù em cứ gầy đi mãi, dù bạn đã bỏ rơi anh trước bậc thang lương nặng nhọc
Dù trong chuyến đi xa, mọi chỗ ngồi đã kín, anh đu mình trên các dóng sắt
Như một bị hàng
Dù anh ngơ ngẩn buồn như một kẻ nhà quê nhỡ tàu trước Praha, Sôphia, Matxcơva hay La Habana
Dù nửa đêm những mỹ từ trôi dạt, câu thơ chẳng thành bài vây phủ anh
Như mùa mưa xứ Huế
Tôi ạ, anh không được mệt mỏi bao giờ.
Tôi ạ, anh không bao giờ có quyền mệt mỏi
Bởi vì nắng có mệt mỏi chút nào đâu
Những ngọn cỏ phủ xanh mộ người thân yêu như xanh không biết mỏi
Bởi vì gừng lại cay, muối lại mặn, bầy trẻ lại tựu trường và ở nơi xa xôi kia, những con sóng lại tìm được bãi bờ
Bầu trời trong vô hạn, nỗi bí ẩn con người là vô hạn
Những em bé gầy đói châu Phi mãi nhìn vào mắt anh qua lớp sóng nhập nhoè
Màn ảnh nhỏ:
Vì sao người ta ném tiền vào vũ trụ mà không cho em một mẩu bánh mì?
Vì sao người ta giết người không mệt mỏi, ăn cướp, nói dối không mệt mỏi?
Bà Thátchơ, ông Rigân vẫn giữ nụ cười ăn khách ngã ba đường
Ông Goocbachôp lại lên đài nói về những giải pháp hoà bình không mệt mỏi
Tôi ạ, anh không được mệt mỏi bao giờ.
Tôi ạ, anh phải nguyên vẹn một con người
Trước cánh rừng âm u anh đã rung lên như sấm sét thì bây giờ anh được hát
Một lời buồn
Anh đã làm đá dưới mưa bom thì bây giờ hãy dịu dàng như hạt cải
Dịu dàng như một người bố, dịu dàng như những đứa con
Sách vở có thể làm diều, những trói buộc làm dây
Và anh đứng dưới chiều cao của nỗi vô tư có cánh
Mùa hạ này sen trong hồ Thái Dịch thơm vào miền vô tận cuộc đời anh
Anh phải tái tạo ra mình không vết rạn…
Tôi ạ, dẫu giáp hạt này gạo có giá mà thơ thì mất giá
Nhưng anh đừng đem thơ chào mời trong ngõ tối
Thơ lặng lẽ, gầy gò, thơ như thanh thép nguội
Thơ là cột thu lôi dưới trận bão giông này
Rồi một sáng bầu trời xanh trở lại
Có con chuồn chuồn chấm đỏ ngọn thơ vui.
31-5-1986
*
Không Có Quyền Mệt Mỏi – Gánh Nặng Và Trách Nhiệm Của Một Con Người
Có những bài thơ không chỉ là lời tự sự, mà còn là một tiếng gọi, một sự thức tỉnh. Không có quyền mệt mỏi của Nguyễn Khoa Điềm chính là một bài thơ như thế – một lời nhắc nhở mạnh mẽ về trách nhiệm, về sự kiên trì trước những biến động của cuộc đời.
Bài thơ mở đầu bằng một lời tự vấn, cũng là một lời nhắc nhở nghiêm khắc với chính mình:
“Tôi ạ, anh không bao giờ có quyền mệt mỏi”
Câu thơ vang lên như một mệnh lệnh, một sự thôi thúc. Dù cuộc sống có quăng quật con người đến đâu – dù mùa hè đã trút những tia nắng cuối cùng, dù bạn bè rời bỏ, dù trong những chuyến đi xa không còn chỗ ngồi – thì vẫn không được phép buông xuôi.
Những hình ảnh trong đoạn thơ này gợi lên sự vất vả, cô đơn của một con người giữa dòng đời. Anh như một bị hàng, bị xô đẩy, bị lãng quên. Anh như một kẻ nhà quê nhỡ tàu, lạc lõng trước những thành phố xa lạ. Nhưng ngay cả khi những mỹ từ trôi dạt, ngay cả khi câu thơ vây lấy anh như mùa mưa xứ Huế, anh vẫn không có quyền gục ngã.
Bởi vì sao? Bởi vì thế giới vẫn vận động, thiên nhiên vẫn không ngừng nghỉ:
“Bởi vì nắng có mệt mỏi chút nào đâu
Những ngọn cỏ phủ xanh mộ người thân yêu như xanh không biết mỏi”
Nắng vẫn rực rỡ, cỏ vẫn phủ xanh, cuộc sống vẫn tiếp diễn. Và bên cạnh sự tuần hoàn của tự nhiên là những câu hỏi nhức nhối về nhân loại:
“Vì sao người ta ném tiền vào vũ trụ mà không cho em một mẩu bánh mì?”
“Vì sao người ta giết người không mệt mỏi, ăn cướp, nói dối không mệt mỏi?”
Những câu hỏi ấy không phải là những lời than vãn, mà là những cú hích mạnh mẽ đánh vào lương tri con người. Chúng ta không thể mệt mỏi, không thể dừng lại, bởi vì thế giới này vẫn còn quá nhiều bất công, vẫn còn quá nhiều những kẻ thao túng quyền lực mà không hề nao núng.
Và rồi, bài thơ đi đến một sự chuyển hóa:
“Tôi ạ, anh phải nguyên vẹn một con người”
Không chỉ là kiên trì, mà còn phải giữ vững giá trị của bản thân. Con người đã từng rung lên như sấm sét trước những bất công thì giờ đây phải học cách dịu dàng, học cách bao dung. Thơ – thứ mà nhiều người cho là mong manh, nay lại được ví như thanh thép nguội, như cột thu lôi dưới trận bão giông.
Nhưng thơ không phải để chào mời, không phải để chạy theo những giá trị thực dụng. Thơ tồn tại lặng lẽ, nhưng bền bỉ, chờ một ngày bầu trời lại trong xanh, chờ một con chuồn chuồn chấm đỏ ngọn thơ vui.
Bài thơ Không có quyền mệt mỏi là một lời tự nhủ, nhưng cũng là một tuyên ngôn về tinh thần bất khuất của con người trước những khắc nghiệt của cuộc đời. Nguyễn Khoa Điềm đã vẽ lên một hành trình – từ sự quăng quật của số phận, đến những trăn trở về thế giới, và cuối cùng là sự kiên định giữ vững bản thân. Dù cuộc đời có ra sao, dù giông bão có kéo đến, thì vẫn phải đứng vững, vẫn phải bước tiếp, vẫn phải giữ lấy chính mình.
*
Nguyễn Khoa Điềm – Nhà thơ và Nhà chính trị Việt Nam
Nguyễn Khoa Điềm (sinh ngày 15/4/1943), tên thật là Nguyễn Hải Dương, là một nhà thơ, nhà chính trị nổi bật của Việt Nam. Ông từng giữ nhiều chức vụ quan trọng như Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng khóa IX, Trưởng ban Tư tưởng – Văn hóa Trung ương, Bộ trưởng Bộ Văn hóa – Thông tin và Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa X.
Sinh ra tại Thừa Thiên Huế, Nguyễn Khoa Điềm xuất thân trong một gia đình có truyền thống văn hóa, là con trai của nhà báo Hải Triều. Ông học tập tại miền Bắc và tốt nghiệp Đại học Sư phạm Hà Nội năm 1964. Sau đó, ông vào miền Nam tham gia phong trào học sinh, sinh viên, hoạt động trong Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, vừa chiến đấu vừa sáng tác thơ ca.
Nguyễn Khoa Điềm được biết đến với những tác phẩm mang đậm chất sử thi và tinh thần yêu nước. Tiêu biểu nhất là trường ca Mặt đường khát vọng (1974), tác phẩm thể hiện sâu sắc tinh thần dân tộc và tư tưởng về đất nước, con người Việt Nam. Ngoài ra, ông còn có nhiều tập thơ giá trị như Ngôi nhà có ngọn lửa ấm (1986), Cõi lặng (2007), và được trao tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật.
Sau khi nghỉ hưu, ông sống tại Huế, tiếp tục đóng góp cho văn học nước nhà bằng những tác phẩm giàu ý nghĩa. Nguyễn Khoa Điềm là một trong những gương mặt tiêu biểu của nền thơ ca kháng chiến và văn học Việt Nam hiện đại.
Viên Ngọc Quý.