Cảm nhận bài thơ: Kiếp sau ví lại gặp mình – Bàng Bá Lân

Kiếp sau ví lại gặp mình

(Tặng Phạm Kim Thuần, người bạn đời của tôi)

Còn nhớ mãi mùa đông năm Tuất
Về Bắc Giang xem mặt hỏi mình.
Yêu mình vì nụ cười xinh,
Yêu mình dáng dấp hiền lành dễ thương.
Tuổi mình mới tròn gương có lẻ,
Về cùng ta, ôi bé bỏng sao!
Khi ăn ở, lúc ra vào,
Nết na, thuỳ mị, ai nào không ưa.
Mình cũng có ít mơ nho nhỏ,
Những mong ta sẽ cố thực hành…
Thương ôi! Ta để tan tành,
Vì ta vốn kiếp trời sinh hững hờ:
Suốt ngày trắng ngẩn ngơ ngơ ngẩn,
Chỉ mơ màng thơ thẩn không đâu!
Không nghèo song cũng không giầu,
Nên chi chẳng có nhà lầu, xe hơi.
Nhưng mình chẳng nửa lời mong muốn,
Yên vui cùng đồng ruộng nông thôn;
Thả vài lứa lợn con con,
Đầy sân gà vịt sớm hôm vui vầy.
Mình rất thích trồng cây gây trái,
Thích nuôi tằm, chăm hái dâu xanh.
Đôi bàn tay trắng mịn xinh
Giờ đây hằn nổi gân xanh mấy đường.
Nghĩ lắm lúc mà thương mà xót,
Cũng toan ra gánh vác với đời,
Để cho mình được thảnh thơi,
Môi hồng nở mãi nụ cười vô tư.
Nhưng cái bệnh làm thơ đeo đẳng,
Ngày càng thêm trầm trọng. Ôi buồn!
Mải mê vui thú ruộng vườn,
Ngược xuôi chán ngắt con đường lợi danh.
Đã thế lại đa tình lắm mối,
Khiến việc nhà càng rối bòng bong,
Nhiều cô má phấn môi hồng
Thường xen vào những chuyện lòng đôi ta!
Cũng có lúc chén xô bát vỡ,
Lời gắt gay chồng vợ eo sèo;
Vì ta điêu đứng đã nhiều,
Nhưng mình vẫn một lòng yêu mặn nồng.
Hỏi: “Có ghét lấy chồng thi sĩ?”
Không nói năng, mình chỉ lắc đầu,
Thế ra trăm khổ ngàn đau
Mình không than thở gì đâu, hở mình?

Kiếp sau ví gặp lại mình,
Thì ta lại kết mối tình cùng… thơ!


13-5-1957

*

Kiếp Sau Ví Lại Gặp Mình – Một Tình Yêu Vĩnh Cửu

Có những tình yêu không cần lời hoa mỹ, không cần những lời thề non hẹn biển, chỉ cần những năm tháng lặng thầm bên nhau, chia sẻ cả niềm vui lẫn nhọc nhằn. Kiếp sau ví lại gặp mình của Bàng Bá Lân là một bài thơ như thế – một lời tự sự chân thành, một câu chuyện tình yêu mộc mạc nhưng sâu sắc, đầy những dư vị của đời sống lứa đôi.

Một mối duyên bắt đầu từ những điều bình dị

Mở đầu bài thơ, tác giả hồi tưởng về những ngày đầu tiên gặp gỡ người bạn đời – một mối lương duyên đến từ sự dung dị, hiền hòa:

“Còn nhớ mãi mùa đông năm Tuất
Về Bắc Giang xem mặt hỏi mình.
Yêu mình vì nụ cười xinh,
Yêu mình dáng dấp hiền lành dễ thương.”

Không có sự sắp đặt cao sang, không có những lời yêu cuồng si cháy bỏng, mà chỉ đơn giản là một nụ cười, một dáng vẻ hiền lành – đủ để người thi sĩ đem lòng yêu thương.

Mối duyên ấy cũng mang một vẻ đẹp rất đặc trưng của những cuộc hôn nhân truyền thống Việt Nam. Người con gái về làm vợ khi tuổi đời còn rất trẻ, bé bỏng, mong manh, nhưng lại mang theo sự dịu dàng và nhẫn nại để vun vén một mái ấm:

“Tuổi mình mới tròn gương có lẻ,
Về cùng ta, ôi bé bỏng sao!
Khi ăn ở, lúc ra vào,
Nết na, thuỳ mị, ai nào không ưa.”

Tình yêu trong bài thơ không đến từ những phút giây bốc đồng, mà là từ những ngày tháng dài sẻ chia cuộc sống – từ bữa cơm, từ những bước chân đi về, từ sự thấu hiểu và bao dung.

Người phụ nữ của gia đình – hy sinh trong lặng thầm

Tác giả cũng không ngần ngại thú nhận những thiếu sót của mình – một người chồng thi sĩ, hững hờ với đời, chẳng màng danh lợi, chỉ biết đắm chìm trong thơ ca:

“Vì ta vốn kiếp trời sinh hững hờ:
Suốt ngày trắng ngẩn ngơ ngơ ngẩn,
Chỉ mơ màng thơ thẩn không đâu!”

Người đàn ông này không thể cho vợ một cuộc sống giàu sang, cũng không thể gánh vác trách nhiệm như một trụ cột vững chãi. Nhưng người vợ vẫn chẳng oán than, vẫn vui với đồng ruộng, chấp nhận cuộc sống bình dị với những đàn lợn, đàn gà, những mùa tằm và ruộng dâu:

“Nhưng mình chẳng nửa lời mong muốn,
Yên vui cùng đồng ruộng nông thôn;
Thả vài lứa lợn con con,
Đầy sân gà vịt sớm hôm vui vầy.”

Tấm lòng của người vợ không chỉ là sự nhẫn nhịn, mà còn là tình yêu chân thành, một tình yêu không cần điều kiện, không cần đòi hỏi, chỉ cần được ở bên nhau.

Nỗi xót xa của người chồng – Khi yêu thương đi cùng day dứt

Người chồng, dù vô tư, dù đắm chìm trong thơ ca, cũng không thể không nhận ra những vất vả, hy sinh của người vợ. Những bàn tay từng trắng mịn giờ đã chai sạn, gân xanh nổi rõ – dấu vết của bao năm tháng tảo tần:

“Đôi bàn tay trắng mịn xinh
Giờ đây hằn nổi gân xanh mấy đường.”

Nhìn người vợ chịu nhiều khổ cực, lòng ông không khỏi xót xa. Nhưng có lẽ, điều ông cảm thấy day dứt nhất không chỉ là sự vất vả của vợ, mà là chính bản thân mình – một người chồng say mê văn chương đến mức không thể thay đổi:

“Nhưng cái bệnh làm thơ đeo đẳng,
Ngày càng thêm trầm trọng. Ôi buồn!”

Thơ ca là niềm vui, là lẽ sống, nhưng cũng là thứ kéo ông ra xa khỏi thực tế đời sống, khiến ông trở nên vô tâm, để người vợ phải một mình gánh vác gia đình.

Không chỉ thế, sự đa tình của ông cũng là một nỗi trăn trở:

“Đã thế lại đa tình lắm mối,
Khiến việc nhà càng rối bòng bong,
Nhiều cô má phấn môi hồng
Thường xen vào những chuyện lòng đôi ta!”

Một người nghệ sĩ đa tình, dễ rung động trước cái đẹp, nhưng cuối cùng, khi ngoảnh lại, vẫn chỉ có một người phụ nữ duy nhất sẵn sàng đi cùng ông qua những thăng trầm.

Chung thủy, nhẫn nhịn, bao dung – một tình yêu vững bền

Dù cuộc sống có những lúc cơm không lành, canh không ngọt, dù có những lời gắt gỏng, những lúc hờn giận, nhưng người vợ vẫn ở lại, vẫn yêu thương ông bằng một tấm lòng bao dung:

“Vì ta điêu đứng đã nhiều,
Nhưng mình vẫn một lòng yêu mặn nồng.
Hỏi: ‘Có ghét lấy chồng thi sĩ?’
Không nói năng, mình chỉ lắc đầu.”

Chỉ một cái lắc đầu – không hờn trách, không than thở, không oán giận – đủ để người thi sĩ hiểu rằng, tình yêu ấy không gì có thể lay chuyển. Một tình yêu không cần nhiều lời, chỉ cần một cái gật đầu hay lắc đầu là đủ để hiểu trọn lòng nhau.

Lời hẹn ước cho kiếp sau

Và rồi, câu kết bài thơ, tưởng chừng như một lời hứa chung thủy, nhưng lại mang một chút bông đùa đầy chất thi sĩ:

“Kiếp sau ví gặp lại mình,
Thì ta lại kết mối tình cùng… thơ!”

Một lời tạ lỗi nhẹ nhàng nhưng cũng thật chua xót. Có lẽ, tác giả biết rằng mình đã mang đến cho vợ quá nhiều khổ cực, nên nếu có kiếp sau, ông không dám hứa hẹn sẽ yêu thương vợ nhiều hơn, mà chỉ dám nói rằng sẽ… yêu thơ như kiếp này! Một lời đùa vui mà nghe ra lại đầy những day dứt và trân trọng.

Lời kết – Một bài thơ, một cuộc đời, một tình yêu

Kiếp sau ví lại gặp mình không chỉ là một bài thơ tình, mà còn là một trang tự truyện đầy xúc động của Bàng Bá Lân về cuộc hôn nhân của mình. Đó là sự trân quý dành cho người bạn đời đã cùng ông đi qua bao thăng trầm, một lời xin lỗi dịu dàng, và cũng là một sự ngưỡng mộ dành cho sự nhẫn nhịn, bao dung của người phụ nữ.

Tình yêu, đôi khi không phải là những lời hoa mỹ, mà là sự bền bỉ đi cùng nhau suốt cả cuộc đời. Và trong tình yêu ấy, dù có những khiếm khuyết, những nỗi buồn, thì cuối cùng, điều còn lại vẫn là sự chân thành và thủy chung.

*

Bàng Bá Lân – Nhà thơ của hồn quê Việt

Bàng Bá Lân (1912–1988) là một nhà thơ tiêu biểu của văn học Việt Nam hiện đại, nổi bật với những vần thơ mộc mạc, giản dị nhưng thấm đẫm tình quê hương và nhân sinh. Ông là một trong những gương mặt chủ chốt của phong trào Thơ Mới, với phong cách trữ tình, nhẹ nhàng và giàu hình ảnh.

Thơ Bàng Bá Lân phản ánh vẻ đẹp của làng quê Việt Nam, từ những buổi trưa hè, xóm chợ chiều đông đến hình ảnh mái trường làng, vườn dừa xanh mướt. Bên cạnh đó, ông còn có những vần thơ sâu sắc về tình yêu, hoài niệm và triết lý nhân sinh. Các tác phẩm tiêu biểu của ông gồm Trưa hè, Xóm chợ chiều đông, Vườn dừa, Giai nhân…

Không chỉ là nhà thơ, Bàng Bá Lân còn là nhà giáo và nhiếp ảnh gia, để lại dấu ấn sâu đậm trong văn hóa Việt Nam. Thơ ông như một bức tranh làng quê yên bình, là tiếng lòng của những tâm hồn yêu thương vẻ đẹp dung dị mà vĩnh hằng của đất nước.

Viên Ngọc Quý.

Bạn cũng có thể thích..

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *