Cảm nhận bài thơ: Lá thư – Nguyễn Bính

Lá thư

 

Từ buổi người đi tập kết xa,
Đã lâu mong được lá thư nhà.
Lá thư: một mảnh trời quê đó!
Ước vọng chưa thành, năm tháng qua.

Ai cắt đường tin, cấm cửa thư?
Tin thư bằn bặt tự bao giờ?
Làm sao gửi được về trong ấy
Những nỗi niềm riêng, những giấc mơ?

Biết bao tâm sự, mấy chờ mong,
Bến cũ, đò xưa, chuyện thuỷ chung.
Muôn thuở tình người ai hạn chế!
Cớ chi bưu thiếp chỉ năm dòng?

Thư dài mấy lá nét nghiêng nghiêng,
Anh viết từ lâu, nếp vẫn nguyên,
Thư chẳng như chim mà có cánh,
Cách gì bay được đến tay em?

Những lá thư hiền như ánh trăng,
Thơm như hoa cỏ, quý vô ngần.
Nằm đêm mơ thấy thư qua tuyến,
Bay kín trời cao, vượt dặm ngàn.

Em tìm trong lớp lớp thư xanh,
Sẽ gặp tình ta, sẽ gặp anh.
Những lá tâm thư là sự sống,
Chuyển qua sông núi đến cho mình.

Sung sướng làm sao! một buổi mai,
Run run ta mở lá thư dài.
Lá thư đẹp dấu tròn bưu điện,
Đúng chữ em mà, đoán chẳng sai!


Tháng 7-1957

*

Lá thư – chiếc cầu mong manh nhưng vĩnh cửu của tình yêu và quê hương

Giữa hai miền đất nước bị chia cắt bởi vĩ tuyến 17, giữa bao lớp sóng chiến tranh và trùng trùng cách trở, con người vẫn tìm đến nhau bằng những điều tưởng như mong manh nhất: một chiếc nón, một ánh mắt, một làn mây – hay như trong bài thơ “Lá thư” của Nguyễn Bính – là một cánh thư viết tay, một mảnh giấy nhỏ chắt chiu bao nỗi nhớ, khát vọng và tình thương.

Ngay từ câu thơ đầu tiên, nhà thơ đã dẫn người đọc vào một không gian xa cách, nơi ký ức và chờ đợi quấn quýt lấy nhau như khói sương:

Từ buổi người đi tập kết xa,
Đã lâu mong được lá thư nhà.

Lời thơ không nức nở, không than vãn, nhưng người đọc nghe rõ trong đó sự thổn thức – nỗi chờ đợi khắc khoải không chỉ của riêng người lính, mà còn của bao người con đất Việt rời quê hương đi vì nghĩa lớn. Họ mang theo trong tim một phần của quê hương, và lá thư – vật nhỏ bé nhưng đầy linh thiêng – trở thành “một mảnh trời quê”, là nơi neo giữ tâm hồn giữa muôn vàn xa lạ.

Lá thư: một mảnh trời quê đó!
Ước vọng chưa thành, năm tháng qua.

Lá thư không đơn thuần là thông tin – nó là ký ức, là hơi thở, là nỗi niềm gói ghém trong từng nét chữ nghiêng nghiêng. Thế nhưng, có một thế lực vô hình đã ngăn con đường của những dòng thư:

Ai cắt đường tin, cấm cửa thư?
Tin thư bặt bặt tự bao giờ?

Giữa một thời đoạn mà thư từ bị kiểm soát, những nỗi niềm riêng, những giấc mơ thầm kín đành bị chôn chặt, không nơi gửi gắm. Nỗi đau ở đây không chỉ là khoảng cách địa lý, mà còn là sự chia cắt tinh thần – khi con người không thể trao cho nhau lời nói, không thể sẻ chia những điều thiêng liêng nhất.

Làm sao gửi được về trong ấy
Những nỗi niềm riêng, những giấc mơ?

Bài thơ chạm đến đỉnh điểm cảm xúc khi nhà thơ đặt một câu hỏi tưởng như rất nhỏ nhưng xoáy sâu:

Muôn thuở tình người ai hạn chế!
Cớ chi bưu thiếp chỉ năm dòng?

Năm dòng – giới hạn khắc nghiệt của một tấm bưu thiếp trong thời kỳ đất nước chia đôi. Năm dòng làm sao đủ cho một tấm lòng? Làm sao chứa hết nỗi nhớ, nỗi đau, niềm yêu? Câu thơ nói hộ bao tiếng lòng bị dồn nén, bao cảm xúc phải thu mình lại dưới ánh mắt kiểm duyệt. Trong hoàn cảnh ấy, những bức thư không được gửi đi lại trở thành những bảo vật của tâm hồn:

Thư dài mấy lá nét nghiêng nghiêng,
Anh viết từ lâu, nếp vẫn nguyên,

Thư không có cánh để bay, không có người đưa lối, chỉ có thể nằm yên đó – nhưng vẫn còn “sự sống”, bởi chúng mang theo một tình yêu không bao giờ nguội:

Thư chẳng như chim mà có cánh,
Cách gì bay được đến tay em?

Thế rồi, giữa bức tường ngăn cách ấy, nhà thơ mơ về một phép nhiệm màu – rằng thư sẽ vượt dặm ngàn, vượt sông núi, vượt những hàng rào vô hình để đến được nơi trái tim đang chờ đợi:

Nằm đêm mơ thấy thư qua tuyến,
Bay kín trời cao, vượt dặm ngàn.

Trong cơn mơ ấy, có em – người con gái nơi quê nhà – đang lật mở từng trang thư với đôi tay run run, với niềm vui sánh ngang phép màu:

Em tìm trong lớp lớp thư xanh,
Sẽ gặp tình ta, sẽ gặp anh.

Tình yêu không chết, thư không mất – bởi chúng sống trong khao khát, trong hi vọng, trong niềm tin không thể bị dập tắt. Nguyễn Bính không chỉ viết về thư, ông viết về “sự sống” của những điều bình dị mà thiêng liêng:

Những lá tâm thư là sự sống,
Chuyển qua sông núi đến cho mình.

Và bài thơ khép lại bằng một hình ảnh bình dị, nhưng xúc động vô bờ:

Sung sướng làm sao! một buổi mai,
Run run ta mở lá thư dài.
Lá thư đẹp dấu tròn bưu điện,
Đúng chữ em mà, đoán chẳng sai!

Niềm hạnh phúc ở đây không cần gì lớn lao. Chỉ cần một dấu tròn bưu điện, một nét chữ quen thuộc, là đã đủ để một con người sống lại sau bao ngày tháng quặn mình trong im lặng.

“Lá thư” là một bài thơ về tình yêu, về sự chờ đợi, về khát vọng gắn bó của những tâm hồn bị chiến tranh chia cắt. Nhưng hơn thế, đó còn là một khúc ca ca ngợi những điều nhỏ bé nhưng đầy sức sống – nơi một cánh thư có thể trở thành cánh chim nối liền hai đầu đất nước, nơi tình người, nếu đủ sâu, sẽ không bao giờ bị bóp nghẹt bởi khoảng cách hay cấm đoán. Nguyễn Bính đã cho chúng ta thấy: chỉ cần một lá thư, một tình yêu chân thành – thì ngay cả chiến tranh cũng không thể ngăn nổi những con tim tìm về nhau.

*

Nguyễn Bính (1918-1966) là một trong những nhà thơ nổi bật của phong trào Thơ mới Việt Nam. Ông được biết đến với phong cách mộc mạc, giản dị, đậm chất dân gian và mang hồn quê sâu sắc. Thơ Nguyễn Bính thường gắn với hình ảnh thôn quê, con người bình dị và những chuyện tình duyên đầy cảm xúc, thể hiện một tâm hồn tha thiết với truyền thống. Một số bài thơ tiêu biểu như Lỡ bước sang ngang, Tương tư, Chân quê… đã để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng bạn đọc nhiều thế hệ.

Viên Ngọc Quý

Bạn có thể chia sẻ bài viết qua:

Bạn cũng có thể thích..

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *