Cảm nhận bài thơ: Làng Còng – Xuân Diệu

Làng Còng

 

Một làng thuộc huyện Vĩnh Lộc (Thanh Hoá) có 600 nhân khẩu, ở xa đường giao thông. Nông dân sống rất vất vả; có câu tục ngữ: “Hạt cơm làng Còng -Ăn cong xương sống”.

Sớm nay xa cách làng Còng,
Bước đi một bước, trong lòng mến yêu.
Làng Còng vất vả deo neo,
Tô đong, thóc rẽ bao nhiêu căm thù.
Nông dân lao động bốn mùa,
Trồng bông, bón mía, lại vừa tỉa ngô.
Mùa thường ngập lụt chẳng no,
Chiêm thời thỉnh thoảng mất khô một kỳ.
Tháng ba hái củi nặng nề,
Tháng mười kéo mật đêm khuya thức ròng.
Quay xa biết mấy trăm vòng,
Còm lưng bà mẹ trên khung cửi dài.
Nắng hồng chưa kịp sớm mai,
Lưới, nơm, người đã ngâm ngoài ruộng chiêm.
Làm mà nhà rách vách lem,
Vì chưng địa chủ nằm êm mấy toà!
Làng Còng phát động trải qua,
Cây rung đất chuyển như là mùa xuân.
Mặt người lao động nông dân
Sáng tươi gạt hết mấy lần mây đen.
Lửa hờn nhen nhúm đêm đêm,
Thác căm hờn đã đè trên kẻ thù,
Tôi về hai tháng không lâu,
Cùng nhau bát mẻ, chung nhau chiếu sờn.
Hạt cơm ăn của bà con
Là tình, là nghĩa, là ơn thấm nhuần.
Tay anh tôi nắm, tôi cầm,
Khổ xưa gạn kể, đau ngầm phanh phơi.
Khóc chung nước mắt nghẹn lời,
Cười chung sung sướng với người nông dân.
Thuộc đường, thuộc ngõ quen chân,
Ớt cay, mắm mặn, là dân lang rồi,
Mẹ nhìn con bước xa xôi,
Con nhìn mẹ khuất trên đồi lá xanh.
Sớm nay xa cách lều tranh,
Tưởng như khúc ruột còn quanh làng Còng.


11-1953

*

Làng Còng – Khúc Ruột Thương Nhớ

Có những vùng quê không chỉ là một địa danh, mà còn là những khúc ruột gắn bó, nơi hằn sâu trong tâm khảm người đi kẻ ở. Làng Còng của Xuân Diệu không chỉ là một bài thơ mà còn là một bức tranh chân thực về một miền quê nghèo, nơi những con người lao động lam lũ nhưng kiên cường, nơi những tháng ngày cơ cực đã khắc lên từng nếp nhăn, từng dáng lưng còng của người dân quê.

Bài thơ mở ra bằng lời từ biệt:

“Sớm nay xa cách làng Còng,
Bước đi một bước, trong lòng mến yêu.”

Những câu thơ như lời tâm sự nghẹn ngào của một người đã gắn bó, đã thấu hiểu và thương yêu từng con đường, từng con người nơi đây. Làng Còng, một miền quê nghèo thuộc huyện Vĩnh Lộc (Thanh Hóa), nơi mà “hạt cơm làng Còng – Ăn cong xương sống”, gợi lên bao nỗi nhọc nhằn của người dân. Họ phải dốc sức làm lụng, từ “trồng bông, bón mía, lại vừa tỉa ngô” cho đến “tháng ba hái củi nặng nề, tháng mười kéo mật đêm khuya thức ròng”. Nhưng dù có chăm chỉ bao nhiêu, họ vẫn phải chịu cảnh thiếu thốn, bởi vì địa chủ phú ông vẫn ung dung hưởng lợi trên lưng họ.

Những câu thơ tiếp theo đã khắc họa rõ nét sự nhọc nhằn của người dân quê:

“Quay xa biết mấy trăm vòng,
Còm lưng bà mẹ trên khung cửi dài.
Nắng hồng chưa kịp sớm mai,
Lưới, nơm, người đã ngâm ngoài ruộng chiêm.”

Đọc những dòng thơ này, ta như thấy trước mắt hình ảnh những người mẹ, người chị lặng lẽ bên khung cửi, những dáng người bé nhỏ tất bật dưới ánh nắng ban mai. Sự cực khổ ấy kéo dài từ đời này sang đời khác, như một vòng luẩn quẩn không lối thoát. Nhưng giữa cái nghèo khó, giữa bao nhiêu đè nén, vẫn nhen nhóm một ngọn lửa – ngọn lửa của sự đấu tranh, của mùa xuân đang tới:

“Làng Còng phát động trải qua,
Cây rung đất chuyển như là mùa xuân.”

Cuộc sống của người dân không còn mãi quẩn quanh trong sự chịu đựng. Mùa xuân mà Xuân Diệu nhắc đến không chỉ là mùa xuân của thiên nhiên, mà còn là mùa xuân của lòng người, của sự vùng lên mạnh mẽ. Những khuôn mặt từng nhuốm khổ đau nay đã sáng bừng lên niềm tin mới, họ đã đứng dậy, đã đấu tranh để đòi lại công bằng.

Nhưng tình cảm sâu đậm nhất trong bài thơ không chỉ là nỗi xót xa trước cuộc sống khốn khó, mà còn là sự gắn bó thân thương giữa tác giả và người dân làng Còng. Hai tháng gắn bó không phải là quãng thời gian dài, nhưng đủ để khiến Xuân Diệu xem nơi đây như quê hương của mình:

“Tôi về hai tháng không lâu,
Cùng nhau bát mẻ, chung nhau chiếu sờn.”

Những ngày tháng sống cùng bà con đã khiến ông hiểu rõ hơn những nỗi nhọc nhằn và trân quý hơn sự chân tình của họ. Hạt cơm nơi đây không chỉ là miếng ăn đơn thuần mà còn là “tình, là nghĩa, là ơn thấm nhuần”. Câu thơ vừa giản dị vừa thấm đượm sự biết ơn, bởi trong cái nghèo khó ấy, tình người vẫn chan chứa, đùm bọc lẫn nhau.

Những câu thơ cuối là lời chia tay đầy xúc động:

“Mẹ nhìn con bước xa xôi,
Con nhìn mẹ khuất trên đồi lá xanh.”

Hình ảnh người mẹ đứng tiễn con, bóng dáng mờ dần giữa màu xanh của lá gợi lên một nỗi buồn man mác. Đó không chỉ là sự chia xa giữa một người với một miền quê, mà còn là sự lưu luyến, gắn bó, như thể một phần tâm hồn đã ở lại nơi này.

“Sớm nay xa cách lều tranh,
Tưởng như khúc ruột còn quanh làng Còng.”

Lời thơ khép lại nhưng tình cảm vẫn đọng mãi. Làng Còng – một vùng quê nghèo nhưng nghĩa tình, một nơi khổ cực nhưng tràn đầy sức sống. Xuân Diệu không chỉ nói lên nỗi niềm của riêng mình mà còn thay lời biết bao con người đã từng gắn bó với một miền quê, đã từng trải qua những tháng ngày gian khó mà vẫn giữ trọn tấm lòng son sắt.

Bài thơ không chỉ là một bức tranh chân thực về cuộc sống của người dân nghèo trước cách mạng mà còn là một bài ca về tình người, về sức sống mãnh liệt và niềm hy vọng vào ngày mai tươi sáng. Làng Còng, trong ký ức của Xuân Diệu, không chỉ là một vùng đất mà còn là một phần máu thịt, một khúc ruột không bao giờ phai nhạt trong trái tim ông.

*

Xuân Diệu – “Ông hoàng thơ tình” của văn học Việt Nam

Xuân Diệu (1916–1985), tên khai sinh là Ngô Xuân Diệu, là một trong những nhà thơ xuất sắc nhất của nền văn học hiện đại Việt Nam. Với phong cách sáng tác độc đáo, giàu cảm xúc và khát vọng yêu đời mãnh liệt, ông đã để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng bao thế hệ độc giả.

Sinh ra tại Hà Tĩnh nhưng lớn lên ở Quy Nhơn, Bình Định, Xuân Diệu sớm bộc lộ niềm đam mê văn chương. Ông là gương mặt tiêu biểu của phong trào Thơ Mới, mang đến một luồng sinh khí mới cho thi ca Việt Nam. Những tác phẩm như Thơ thơ (1938) hay Gửi hương cho gió (1945) thể hiện rõ nét giọng điệu sôi nổi, táo bạo, chan chứa tình yêu và khát khao tận hưởng vẻ đẹp cuộc sống.

Sau năm 1945, Xuân Diệu chuyển hướng sáng tác, hòa mình vào dòng chảy cách mạng, ca ngợi quê hương, đất nước và con người lao động. Dù ở giai đoạn nào, thơ ông vẫn giữ nguyên vẹn sự say mê và rung động sâu sắc. Những tác phẩm như Riêng chung (1960) hay Hai đợt sóng (1967) tiếp tục khẳng định vị trí của ông trên thi đàn.

Không chỉ là nhà thơ, Xuân Diệu còn là nhà văn, nhà phê bình có ảnh hưởng lớn. Năm 1996, ông được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật, ghi nhận những đóng góp to lớn của mình.

Xuân Diệu vẫn mãi là biểu tượng của thơ tình Việt Nam, là tiếng nói tha thiết của một tâm hồn luôn khát khao yêu và sống trọn vẹn từng khoảnh khắc:

“Hãy tận hưởng ngày giờ đang thở,
Và yêu đời, hãy sống mạnh hơn tôi.”

Viên Ngọc Quý

Bạn có thể chia sẻ bài viết qua:

Bạn cũng có thể thích..

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *