Cảm nhận bài thơ: Liễu trong sương – Huy Thông

Liễu trong sương

Trong sương mờ
Liễu bơ phờ
Bơ phờ cành lá,
Tấm thân, ẻo lả,
Liễu đợi chờ,
Trong sương mờ,
Bâng khuâng, tê tái,
Đàn nhạn mãi mãi
Đi chẳng về,

Ta ước gì,
Bơ phờ như liễu
Còng lưng mềm yếu
Trong sương mờ,
Ta được chờ
Đàn ngày êm ái
Bay đi chẳng lại!
Được vẩn vơ,
Vẩn vơ chờ
Những ngày ngây ngất
Thoảng bay đi mất
Như liễu chờ.
Trong sương mờ,
Ngày xuân rực rỡ,
Tưng bừng, hớn hở,
Lá lê thê,
Nhạn quay về!

*

Nỗi Chờ Đợi Trong Sương Mờ

Có những nỗi chờ đợi không phải để mong một hồi đáp, mà chỉ để níu giữ chút dư âm của quá khứ. Có những nỗi cô đơn không phải vì không ai bên cạnh, mà bởi lòng cứ mãi hướng về một điều đã xa. Trong bài thơ Liễu trong sương, Huy Thông đã mượn hình ảnh cây liễu bơ phờ trong làn sương mờ để diễn tả một tâm hồn chông chênh, một nỗi nhớ miên man về những ngày tươi đẹp đã trôi qua.

Liễu trong sương – nỗi buồn mong manh nhưng dai dẳng

Bài thơ mở ra bằng một khung cảnh mơ hồ và lạnh lẽo:

Trong sương mờ
Liễu bơ phờ

Hình ảnh cây liễu không còn duyên dáng, yêu kiều mà bơ phờ, rũ rượi, như một sinh thể mong manh đang kiệt sức trước thời gian. Trong sương mờ, liễu không chỉ đứng yên, mà đang chờ đợi:

Liễu đợi chờ,
Trong sương mờ,

Nhưng liễu chờ điều gì? Một cơn gió? Một bàn tay nâng niu? Hay một thứ gì vô định trong sương khói?

Bâng khuâng, tê tái,
Đàn nhạn mãi mãi
Đi chẳng về,

Những cánh nhạn đã bay đi, mang theo những ngày rực rỡ, những kỷ niệm không thể trở lại, bỏ mặc liễu trong sự hoang hoải của thời gian.

Ước muốn được trở thành liễu – mong manh và chờ đợi

Ta ước gì,
Bơ phờ như liễu
Còng lưng mềm yếu
Trong sương mờ,

Không phải ai cũng dám đối diện với sự mong manh của chính mình. Nhưng nhân vật trữ tình lại ao ước được như liễu, để được chờ đợi trong vô vọng, để được buông xuôi theo sương gió.

Ta được chờ
Đàn ngày êm ái
Bay đi chẳng lại!

Những ngày tươi đẹp, những khoảnh khắc hạnh phúc đã trôi qua, không bao giờ trở lại. Nhưng thay vì quên đi, nhân vật trữ tình lại muốn tiếp tục chờ đợi, như một người mãi đứng nơi bến cũ, dõi theo một con thuyền đã đi xa.

Mùa xuân đến – niềm vui có trở lại?

Những ngày ngây ngất
Thoảng bay đi mất
Như liễu chờ.

Tình cảm ấy giống như sương mù, mờ ảo nhưng bao trùm khắp không gian, như một nỗi nhớ không thể chạm vào nhưng cũng không thể xóa đi.

Nhưng rồi mùa xuân đến. Mọi thứ như được hồi sinh:

Trong sương mờ,
Ngày xuân rực rỡ,
Tưng bừng, hớn hở,

Liễu không còn bơ phờ nữa, mà rung rinh trước những tia nắng mới. Và điều kỳ diệu đã xảy ra:

Lá lê thê,
Nhạn quay về!

Sau bao ngày mỏi mòn trông đợi, đàn nhạn đã quay lại, như một phép màu của tạo hóa. Nhưng liệu có phải niềm vui thật sự đã trở lại, hay chỉ là một khoảnh khắc tạm thời trước khi mọi thứ lại trôi đi?

Thông điệp của bài thơ – Chờ đợi không chỉ là nỗi buồn, mà còn là một niềm tin

Liễu trong sương không chỉ là bài thơ về sự chờ đợi vô vọng, mà còn là một lời nhắc nhở về sự tuần hoàn của thời gian.

Cuộc sống có những điều sẽ mãi mãi không quay trở lại, nhưng cũng có những thứ, dù đi xa, vẫn có thể trở về. Giống như mùa xuân sẽ luôn đến sau mùa đông, như những cánh nhạn có thể một ngày nào đó lại sải cánh trên bầu trời xưa.

Có những nỗi buồn có thể kéo dài, nhưng không phải là mãi mãi. Và có những niềm vui có thể bị lãng quên, nhưng không có nghĩa là không thể tìm lại.

Liễu vẫn chờ trong sương, nhưng không phải là một sự chờ đợi tuyệt vọng. Mà đó là sự kiên nhẫn của một tâm hồn luôn tin vào những ngày tươi đẹp sẽ quay trở lại.

*

Phạm Huy Thông (1916–1988) – Nhà thơ, nhà giáo, nhà khoa học xã hội Việt Nam

Phạm Huy Thông sinh ngày 22 tháng 11 năm 1916 tại Hà Nội, trong một gia đình kinh doanh lớn, giàu tinh thần dân tộc. Ông là hậu duệ của danh tướng Phạm Ngũ Lão, quê gốc ở Hưng Yên.

Ngay từ nhỏ, Phạm Huy Thông đã bộc lộ tài năng xuất sắc. Ông nổi tiếng trong phong trào Thơ Mới với bài Tiếng địch sông Ô khi mới 16 tuổi. Năm 21 tuổi, ông tốt nghiệp cử nhân Luật tại Viện Đại học Đông Dương, sau đó sang Pháp tiếp tục học tập và trở thành Tiến sĩ Luật, Thạc sĩ Sử – Địa khi mới 26 tuổi. Ông từng là Giáo sư, Ủy viên Hội đồng Giáo dục tối cao của Pháp và có thời gian giúp việc Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Hội nghị Fontainebleau năm 1946.

Sau khi trở về Việt Nam, ông giữ nhiều trọng trách như Hiệu trưởng Trường Đại học Sư phạm Hà Nội (1956–1966), Viện trưởng Viện Khảo cổ học (1967–1988), Đại biểu Quốc hội khóa II, III. Ông có nhiều đóng góp trong nghiên cứu lịch sử, khảo cổ học với các công trình tiêu biểu như Thời đại các Vua Hùng dựng nước, Khảo cổ học 10 thế kỷ sau Công nguyên, Khảo cổ học với văn minh thời Trần.

Bên cạnh sự nghiệp khoa học, ông còn là nhà thơ, có thơ được nhắc đến trong Thi nhân Việt Nam của Hoài Thanh – Hoài Chân. Năm 2000, ông được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh. Tên ông được đặt cho nhiều con đường tại Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh.

Ông qua đời ngày 21 tháng 6 năm 1988 tại Hà Nội.

Viên Ngọc Quý.

Bạn cũng có thể thích..

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *