Một buổi chiều xuân
Thiên ký sự của một thư sinh đời trước.
Hôm đó buổi chiều xuân,
Trông mây hồng bay vân,
Liền gập pho kinh sử,
Lững thững khỏi lầu văn.
Đường leo, nhà lom khom,
Mái xanh, tường rêu mòn.
Ta nhìn, ngâm nga đọc
Câu đối cửa mầu son.
Phu khiêng kiệu ngẩn ngơ,
Thầy lại và thầy thơ
Ngồi xổm cười bên lọng,
Trước cửa tòa dinh cơ.
Cương da buộc thân cây,
Vài con ngựa lắc dây,
Nghển đầu lên gậm lá,
Đập chân nghiêng mình xoay.
Đi vui rồi vẩn vơ,
Hay đâu thức còn mơ.
Lạc vào trong vườn mộng,
Mồm vẫn còn ngâm thơ!
Ô! Vườn bao nhiêu hồng!
Hương nghi ngút đầu bông.
Lầu xa tô mái đỏ,
Uốn éo hai con rồng.
Thoảng tiếng vàng thanh tao,
Bên giàn lý bờ ao,
Một nàng xinh như liễu
Ngồi ngắm bông hoa đào.
Tay cầm bút đề thơ,
Tì má hồn vẩn vơ,
Nàng ngâm lời thánh thót.
Ai không người ngẩn ngơ!
Ta lặng nhìn hơi lâu
— Nhưng thì giờ đi mau —
Đứng ngay gần non bộ
Có ông lão ngồi câu.
Nàng chợt nghiêng thân ngà;
Thoáng bóng người xa xa,
Reo kinh hoàng, e lệ,
Đưa rơi cành bút hoa.
Ta mơ chưa lại hồn,
Nàng lẹ gót lầu son.
Vừa toan nhìn nét phượng,
Giấy thẹn bay thu tròn…
6-5-1933
*
Một Buổi Chiều Xuân – Giấc Mộng Thư Sinh
Nguyễn Nhược Pháp không phải là nhà thơ của những hào khí bi tráng hay những triết lý sâu xa, mà ông là thi nhân của những giấc mộng đẹp, của những cảnh sắc nhẹ nhàng mà đượm chút bâng khuâng. Một buổi chiều xuân là bài thơ như thế – một buổi chiều vừa thực, vừa mộng, nơi mà tâm hồn thư sinh thả trôi giữa cõi đời và cõi mộng, giữa cái hữu hình và những điều thoáng qua như sương khói.
Bước chân người lãng tử – nhịp điệu của thời gian
Bài thơ mở đầu bằng một buổi chiều xuân, khi “mây hồng bay vân”, khi lòng người dễ buông xuôi những trang sách kinh sử để thả bước xuống phố.
“Hôm đó buổi chiều xuân,
Trông mây hồng bay vân,
Liền gập pho kinh sử,
Lững thững khỏi lầu văn.”
Những câu thơ mở đầu mang một nhịp điệu thong dong, tựa như bước chân của chàng thư sinh. Cảnh vật trước mắt không có gì quá đặc biệt, nhưng lại toát lên một nét đẹp hoài cổ: “Đường leo, nhà lom khom, Mái xanh, tường rêu mòn.” Đây chính là những hình ảnh thân thuộc của một làng quê Việt Nam xưa, nơi thời gian dường như trôi chậm hơn và mọi thứ đều nhuốm màu của hoài niệm.
Giấc mộng của kẻ phong lưu
Bước đi trên con đường xuân ấy, người thư sinh vô tình bước vào một cõi khác – một khu vườn đẹp tựa giấc mộng.
“Ô! Vườn bao nhiêu hồng!
Hương nghi ngút đầu bông.
Lầu xa tô mái đỏ,
Uốn éo hai con rồng.”
Giữa khu vườn mộng ấy, xuất hiện một nàng thiếu nữ đẹp tựa tiên nữ giáng trần:
“Thoảng tiếng vàng thanh tao,
Bên giàn lý bờ ao,
Một nàng xinh như liễu
Ngồi ngắm bông hoa đào.”
Cô gái ấy không chỉ đẹp về nhan sắc mà còn mang trong mình vẻ thanh tao của một bậc tài nữ. Nàng cầm bút đề thơ, đắm chìm trong suy tư, để rồi cất lên tiếng ngâm thanh thoát. Đó không chỉ là hình ảnh của một người con gái, mà còn là biểu tượng của cái đẹp, của nét duyên dáng mà chàng thư sinh mơ tưởng bấy lâu.
Nhưng rồi, như một quy luật bất biến của những giấc mộng đẹp, nàng biến mất nhanh chóng như khi xuất hiện.
“Nàng chợt nghiêng thân ngà;
Thoáng bóng người xa xa,
Reo kinh hoàng, e lệ,
Đưa rơi cành bút hoa.”
Khoảnh khắc ấy vừa mong manh vừa đẹp đến nao lòng. Hình ảnh nàng vội vã rời đi, để lại chiếc bút hoa rơi xuống, khiến giấc mộng trở nên dang dở, như một bản nhạc vừa lên cao đã bất chợt ngừng lại.
Hiện thực hay chỉ là một giấc chiêm bao?
Bài thơ khép lại với hình ảnh:
“Ta mơ chưa lại hồn,
Nàng lẹ gót lầu son.
Vừa toan nhìn nét phượng,
Giấy thẹn bay thu tròn…”
Người thư sinh còn chưa kịp định thần thì tất cả đã tan biến. Chiếc bút rơi, tờ giấy cũng bay đi, mọi thứ như một làn khói thoảng qua. Đây là khoảnh khắc mà thực và mộng giao hòa, nơi mà con người ngẩn ngơ giữa cõi đời mà lòng vẫn vương vấn một bóng hình xa xăm.
Thông điệp của bài thơ – Cái đẹp luôn mong manh và thoáng qua
Nguyễn Nhược Pháp không miêu tả cuộc đời bằng những gam màu mạnh mẽ, mà ông khắc họa nó như một bức tranh phớt nhẹ những gam màu pastel, êm dịu nhưng lại chất chứa nhiều ý vị. Một buổi chiều xuân mang trong mình tinh thần ấy – một cuộc dạo chơi tưởng chừng bình thường nhưng lại ẩn chứa biết bao điều.
Hình ảnh người thư sinh lạc vào khu vườn xuân, gặp giai nhân rồi lại mất nàng, như một ẩn dụ về cái đẹp trong đời. Đẹp đấy, nhưng mong manh. Tưởng chừng nắm được trong tay, nhưng rồi cũng chỉ là một thoáng hư không. Đó là sự tiếc nuối khi chạm tay vào điều mình ao ước, nhưng cũng là lời nhắc nhở rằng cái đẹp luôn gắn liền với sự vô thường.
Và có lẽ, người thư sinh ấy dù đã bước ra khỏi khu vườn, nhưng tâm hồn vẫn còn lơ lửng nơi đó – nơi có một nàng thiếu nữ với chiếc bút hoa rơi xuống trong một buổi chiều xuân năm ấy…
*
Nguyễn Nhược Pháp – Nhà thơ trữ tình tài hoa
Nguyễn Nhược Pháp (1914-1938) là một nhà thơ trữ tình của Việt Nam, được biết đến với phong cách thơ nhẹ nhàng, hóm hỉnh nhưng vẫn thấm đượm chất trữ tình và tinh thần dân tộc. Ông là con trai của học giả, nhà báo, dịch giả Nguyễn Văn Vĩnh – người có nhiều đóng góp quan trọng trong việc truyền bá chữ Quốc ngữ và văn hóa phương Tây vào Việt Nam.
Ngay từ nhỏ, Nguyễn Nhược Pháp đã bộc lộ năng khiếu văn chương. Ông theo học tại Trường Trung học Albert Sarraut, sau đó tiếp tục học tại Trường Cao đẳng Luật và Pháp chính. Bên cạnh việc học, ông còn tham gia viết báo và sáng tác thơ, truyện ngắn, kịch bản.
Năm 1935, tập thơ “Ngày xưa” của ông ra đời, mang đến một làn gió mới cho thi đàn Việt Nam. Các bài thơ như Chùa Hương, Tay Ngà, Sơn Tinh Thủy Tinh đã ghi dấu ấn sâu đậm trong lòng độc giả nhờ lối thơ giản dị, trong sáng, kết hợp giữa chất dân gian và hơi thở hiện đại. Ngoài thơ, ông còn viết kịch, tiêu biểu là vở Người học vẽ (1936).
Cuộc đời Nguyễn Nhược Pháp ngắn ngủi, ông qua đời vì bệnh lao hạch khi mới 24 tuổi. Dù vậy, thơ ông vẫn để lại dấu ấn đặc biệt trong nền văn học Việt Nam, được đánh giá là mang nét duyên dáng riêng biệt, hiền lành và thanh tao.
*