Một mũi tên rơi hai cờ huyễn tượng
“Cũng như dòng suối về gặp đại dương
Ngày mai ra đi anh nhớ hát lên khúc ca mùa mới
Tiếng hát kia vẳng lại sẽ đủ sức tiễn tôi trên một đoạn đường”
Tôi sẽ không ra đi
Hoặc sẽ ra đi nhưng không bao giờ tôi đến
Nơi khởi hành có trăng mây gió nước, và nơi tôi đến đón chờ
cũng sẽ có hoa vàng trúc tím
Là lá là hoa, em đã có tôi từ vô thỉ
Và mầu xanh trời cao trong mắt em sẽ còn mãi mãi
Nhưng vì không thấy, thương tôi, em đã bao lần nhắc chuyện ra đi
Sáng nay sau giấc ngủ của trăng sao,
vũ trụ làm rơi những giọt nước mắt trong như pha lê,
Êm dịu sương khuya, hãy khóc cho hồn ngươi thêm đẹp
Nước mắt sẽ biến hồn hoang vu thành nơi vườn quê tươi sáng,
Thanh lương thấm lòng trái đất, nâng niu lộc mướt chồi non,
Ngày xưa những khi ngồi nhìn em khóc, tôi cũng đã ưng khóc
để được dỗ dành.
Ôi thiên nhiên
Bà mẹ tóc xanh, xanh mướt đất trời, nụ cười đem về
đầy bướm chim hoa lá,
Là lá là hoa, em đã có tôi từ vô thỉ
Và trong nhận thức mong manh em, tôi thực chưa bao giờ
từng hiện hữu tử sinh.
Em có nhớ ngày đầu tiên khi Mẹ đưa tôi về, nhờ năm nhóm
nhiệm mầu, em mới trông thấy bóng hình tôi hiển lộ?
Ngày mai bóng hình mất đi
Em hãy mỉm cười
Và bình thản tìm tôi trở lại
Tìm tôi qua thanh sắc đã sinh và đã mất
Để thấy rằng tôi vẫn còn chân thực
Chưa bao giờ đi
Chưa bao giờ đến
Qua thời gian, qua nhận thức, qua chủ khách tồn sinh.
Tìm tôi và tiện dịp em tìm em
Nét khám phá nguyên sơ
Chỉ cho em thấy rằng em là bất diệt
Em sẽ thấy
Không có gì đi, mất
Và với một mũi tên thôi, em bắn rơi một lần hai lá cờ huyễn tượng
Chân như sẽ xuất hiện mầu nhiệm nơi tử sinh.
Tôi đang mỉm cười an nhiên trong phút giây hiện tại
Nụ cười nở mãi trong bài ca mùa Xuân bất tận
Trong nụ cười kia em cũng sẽ thấy em còn mãi
Bởi vì em quả thực chưa từng bao giờ hiện hữu
trong ảo tưởng tồn sinh.
Nụ cười hôm nay, ta sẽ nhìn thấy ngày mai
Tận cuối đường ảo tượng
Không có gì đã qua và đã mất
Không có gì sẽ qua và sẽ mất
Và suối chim khuyên em hôm nay
“Hãy vẫn cứ là bông hoa hát ca”.
(Bài thơ nằm trong Tập thơ Chắp tay nguyện cầu cho bồ câu trắng hiện (NXB Lá Bối, 1965) gồm những bài thơ kêu gọi hoà bình cho Việt Nam)
*
“Một mũi tên rơi hai cờ huyễn tượng – Bài ca không sinh không diệt trong trái tim tỉnh thức”
Trong cơn lốc của thời gian, giữa những cuộc chia ly và khát vọng trở về, bài thơ “Một mũi tên rơi hai cờ huyễn tượng” của Thiền sư Thích Nhất Hạnh vang lên như một khúc thiền ca nhiệm màu, vừa mênh mang hư ảo, vừa thấm sâu như giọt cam lộ vào cõi người đầy biến động. Bài thơ là một lời tiễn đưa, nhưng không phải của khổ đau hay mất mát – mà là lời tiễn của một người đã thấy được bản chất của mọi hiện hữu: không đến, không đi, không sinh, không diệt.
1. Ra đi, mà chưa từng rời xa
“Tôi sẽ không ra đi
Hoặc sẽ ra đi nhưng không bao giờ tôi đến
Nơi khởi hành có trăng mây gió nước, và nơi tôi đến đón chờ
cũng sẽ có hoa vàng trúc tím”
Những câu thơ này như một tiếng hát nghìn trùng phá vỡ ranh giới của không gian và thời gian. Trong cái nhìn của Thiền sư, không có một nơi chốn tuyệt đối gọi là “nơi đến” hay “nơi đi”. Sự sống là một vòng chuyển hóa bất tận, không khởi đầu và cũng không có kết thúc. Hoa vẫn nở nơi đây cũng như nơi kia, bởi nơi đâu cũng là đất của tâm, của tỉnh thức. Người đi, nhưng thực ra không hề rời bỏ; kẻ ở, nhưng chưa từng nắm giữ.
2. Em đã có tôi từ vô thỉ
“Là lá là hoa, em đã có tôi từ vô thỉ
Và mầu xanh trời cao trong mắt em sẽ còn mãi mãi”
Ở đây, ta bắt gặp ý niệm bất nhị trong tư tưởng Thiền tông: không có tôi riêng lẻ, không có em tách biệt. Tôi hiện hữu trong em, và em phản chiếu trong tôi. Từ vô thỉ – tức là từ không khởi đầu chúng ta đã hòa vào nhau như nước với mây, như trăng với dòng suối. Sự tồn tại ấy không bị giới hạn bởi thân xác hay trí nhớ, mà mang bản chất tâm linh vĩnh hằng.
3. Nước mắt – món quà của vũ trụ
“Vũ trụ làm rơi những giọt nước mắt trong như pha lê
Êm dịu sương khuya, hãy khóc cho hồn ngươi thêm đẹp”
Nước mắt ở đây không còn là biểu tượng của đau khổ, mà là đóa hoa tinh khiết nở ra từ niềm cảm xúc sâu xa trước sự sống nhiệm mầu. Hãy khóc, không phải vì mất mát, mà vì xúc động trước cái đẹp vô biên, vì trái tim ta vẫn còn rung động, còn biết yêu thương.
Giọt nước mắt trở thành giọt sương, biến hồn hoang vu thành vườn quê tươi sáng – nơi nỗi đau được chuyển hóa thành hiểu biết và từ bi.
4. Chúng ta chưa từng hiện hữu trong ảo tưởng
“Tôi thực chưa bao giờ từng hiện hữu tử sinh…
Bởi vì em quả thực chưa từng bao giờ hiện hữu
trong ảo tưởng tồn sinh”
Đây là phần sâu thẳm nhất của bài thơ, nơi mà nhận thức nhị nguyên về sống và chết, có và không… tan chảy. Chúng ta vốn tưởng như đang sống thực ra đang trôi lăn trong một giấc mộng dài của vọng tưởng. Và khi ta tỉnh dậy, mới thấy: ta chưa từng đến, chưa từng rời, chưa từng chết, chưa từng sinh.
Đó là trực giác Bất Sinh Bất Diệt, là cái thấy “như thị” – chân như mà Thiền sư dẫn dắt người đọc hướng về trong từng dòng thơ thấm đẫm trí tuệ.
5. Một mũi tên – bắn rơi hai lá cờ huyễn tượng
“Không có gì đi, mất
Và với một mũi tên thôi, em bắn rơi một lần hai lá cờ huyễn tượng”
Hai lá cờ ấy chính là ý niệm về sinh và tử, có và không, đến và đi – những thứ tạo nên ảo tưởng hiện hữu. Chỉ cần một cái thấy đúng – một mũi tên chánh niệm – thì cả hai huyễn tượng ấy đều rơi xuống. Không còn sinh tử đối đãi, không còn bám víu hay sợ hãi.
Giác ngộ không phải là trốn khỏi cuộc đời, mà là thấy rõ nó trong chân tướng, để mà mỉm cười giữa hoa nở và hoa tàn.
6. Hát ca giữa mùa Xuân bất tận
“Tôi đang mỉm cười an nhiên trong phút giây hiện tại
Nụ cười nở mãi trong bài ca mùa Xuân bất tận”
Và cuối cùng, tất cả những điều ấy đều quy về hiện tại, nơi người đã thấy rõ không còn gì để tiếc nuối, cũng chẳng có gì để trông chờ. Nơi đó, nụ cười là bài ca miên viễn của Xuân – mùa không thuộc về tháng năm, mà thuộc về cõi tâm đã tĩnh lặng và rạng rỡ.
Kết: Một bài thơ – một con đường tỉnh thức
“Một mũi tên rơi hai cờ huyễn tượng” không phải chỉ là bài thơ, mà là một pháp thoại thi ca, một con đường tỉnh thức được kết bằng ngôn từ thơ mộng và thấm đẫm ánh sáng thiền. Thiền sư không rao giảng, không dạy dỗ, mà đưa tay nắm lấy tâm hồn người đọc, cùng nhau đi qua khổ đau và ảo tưởng, để đến nơi chỉ còn lại ánh mắt hiền, tiếng cười nhẹ, và một mùa Xuân chưa bao giờ rời bỏ.
*
Thiền sư Thích Nhất Hạnh – Vị sứ giả của hòa bình và chánh niệm
Thiền sư Thích Nhất Hạnh (1926–2022) là một trong những vị thiền sư lỗi lạc và có ảnh hưởng sâu rộng nhất của Phật giáo thế giới đương đại. Không chỉ là một nhà tu hành, ngài còn là nhà văn, nhà thơ, học giả, nhà hoạt động xã hội vì hòa bình và người tiên phong đưa chánh niệm (mindfulness) vào đời sống thường nhật một cách thiết thực, giản dị nhưng sâu sắc.
Sinh ra tại tỉnh Thừa Thiên Huế, Việt Nam, Thích Nhất Hạnh xuất gia từ năm 16 tuổi tại chùa Từ Hiếu. Sau quá trình tu học và nghiên cứu, ngài đã có nhiều đóng góp quan trọng cho Phật giáo hiện đại, đặc biệt là trong việc kết nối tinh thần đạo Phật với các vấn đề xã hội. Ngài là người sáng lập Dòng tu Tiếp Hiện, Làng Mai (Plum Village) ở Pháp – một trung tâm tu học nổi tiếng thu hút hàng nghìn người từ khắp nơi trên thế giới.
Thông qua hàng trăm tác phẩm viết bằng tiếng Việt, tiếng Anh và các ngôn ngữ khác, Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã truyền cảm hứng cho hàng triệu người về lối sống tỉnh thức, từ bi và không bạo lực. Những khái niệm như “hơi thở ý thức”, “thiền đi”, “an trú trong hiện tại” trở nên gần gũi với nhiều người nhờ vào cách giảng giải mộc mạc, giàu hình ảnh của ngài. Các tác phẩm tiêu biểu như Phép lạ của sự tỉnh thức, Đường xưa mây trắng, An lạc từng bước chân, Giận … là những cuốn sách được yêu mến và tìm đọc rộng rãi.
Trong suốt cuộc đời, ngài cũng là một nhà hoạt động tích cực cho hòa bình. Năm 1967, ngài được mục sư Martin Luther King Jr. đề cử Giải Nobel Hòa bình nhờ những nỗ lực vận động chấm dứt chiến tranh Việt Nam bằng con đường đối thoại và bất bạo động.
Ảnh hưởng và di sản của ngài không chỉ lan rộng trong cộng đồng Phật giáo mà còn được quốc tế ghi nhận sâu sắc. Năm 2011, khu tượng đài “Remember Them: Champions for Humanity” với diện tích khoảng 100m2 được đặt tại khu công viên Henry J. Kaiser Memorial, thành phố Oakland, tiểu bang California (Hoa Kỳ). Bức tượng điêu khắc chân dung 25 nhân vật nổi tiếng còn sống và đã qua đời, đã có cống hiến lớn lao vì quyền con người trên thế giới. Thiền sư Thích Nhất Hạnh là một trong số những nhân vật được chọn để thể hiện trên tượng đài này, với những đóng góp của ngài cho công cuộc xây dựng hòa bình của nhân loại.
Vào ngày 11 tháng 4 năm 2025, thành phố New York đã chính thức đồng đặt tên đoạn đường West 109th Street (từ Riverside Drive đến Broadway) là “Thích Nhất Hạnh Way” để vinh danh Thiền sư Thích Nhất Hạnh. Đây là nơi ngài từng sống và giảng dạy trong những năm 1960 khi theo học tại Union Theological Seminary và giảng dạy tại Đại học Columbia./.
Viên Ngọc Quý