Cảm nhận bài thơ: Mùa gặt – Bàng Bá Lân


Mùa gặt

Gà vừa gáy. Trời mai còn ẩm ướt
Đường trong thôn rầm rập bước chân đi.
Tiếng gọi, thưa ấm ới động sương khuya,
Tiếng sát gạo trên cầu ao sền sệt.
Rồi lửa đỏ bập bùng trong các bếp,
Rồi tiếng mâm va bát động lanh canh
Tiếng cười đùa xen tiếng đũa và nhanh,
Người vội vội. Trống tàn canh gấp gấp…
Trời tang tảng. Sương đào bay lớp lớp,
Cánh đồng quê mờ ngợp khói sương mơ,
Từ cổng làng từng bọn kéo nhau ra,
Tiếng quang cặp, đòn càn va lách cách.
Họ vui vẻ đi nhanh trên đường đất,
Rồi tạt ngang, tản mát khắp đồng quê.
Họ dừng chân bên ruộng ướt sương khuya
Lúa rạp rạp ngả theo chiều gió thổi.
Thợ đàn ông xắn quần lên quá gối,
Thợ đàn bà cao váy xếch hai bên
Để lộ ra những cặp bắp chân đen,
Rồi kẻ hái người liềm xô xuống ruộng.
Lúa thức giấc xạc xào trong hỗn độn,
Lúa run run lìa cuống ngã trên tay…
Lũ cào cào châu chấu sợ tung bay,
Nhưng chớp mắt lại nặng nề rơi xuống.
Liềm hái gặt. Lúa thi nhau lìa cuống,
Nằm ngổn ngang trên ruộng hở màu đen.
Phía trời đông quạt lửa rộng xoè lên,
Cánh đồng bỗng rực tươi màu đỏ ối.
Sương mỏng mỏng nhẹ tan như làn khói
Lúa thơm thơm, rơm mới cũng thơm thơm.
Không khí thơm tho, gió chạy rập rờn,
Làm gợn gợn sóng vàng trên biển lúa.
Thửa ruộng kia, tiếng ai vừa hát đó.
Giọng thanh thanh theo gió vẳng đưa xa.
Rồi đồng quê vang rộn tiếng dân ca,
Tình thắm thiết ngụ trong lời thắm thiết.
Miệng cứ hát, tay cứ làm mải miết,
Làm say mê như quý tiếc thời gian.
Họ như quên không thấy nắng hanh vàng
Dần gay gắt rêu ròn trên nón lá,
Và người họ mồ hôi ra tầm tã
Dán lưng vào manh áo bạc màu nâu…

           *

Mặt trời lên… lên chót vót từ lâu,
Bóng đa đã thu tròn như chiếc tán.
Thợ dừng tay, lên bờ ăn bữa sáng.
Cơm muối vừng sàn sạn thế mà ngon,
Vài quả cà, dưa muối với tương om,
Nước vối loãng chuyên tay… là hết bữa!
Thợ đàn ông thổi mồi rơm lấy lửa.
Vê thuốc lào, rịt điếu, rít vài hơi,
Thở khói phào cuồn cuộn tựa mây trôi,
Vẻ khoan khoái trong tiếng cười dễ dãi.
Thợ đàn bà cũng thong dong mở giải
Yếm, lấy ra vôi vỏ với trầu cau,
Rồi cười cười nói nói thết mời nhau,
Quết trầu thắm tô vành môi cắn chỉ.
Trầu thuốc đoạn, sau nửa giờ tạm nghỉ,
Lại hò nhau hối hả xuống đồng trưa.
Kẻ cắt hoài, kẻ lượm… rất say sưa.
Không nhọc mệt – (ngày mùa ai cũng khoẻ!)
Lúa đã lượm, họ kề vai rất nhẹ,
Gánh xăm xăm về phía cổng làng xa
Trên đường quê lũ bảy, lũ năm ba,
Gánh gánh mãi, về, ra, coi tấp nập.
Chiều càng xuống, người đi càng hấp tấp
Như đàn cò gấp gấp ruổi theo mây,
Gió lạnh lùng, xương bột rắc rây rây,
Chùa đâu đó rỏ hồi chuông lảnh lảnh.

           *

Đồng quê xám mênh mông và vắng lạnh,
Nhưng khắp làng rộn rịp hội hoa đăng.
Tất cả đèn to nhỏ cháy dăng dăng
Không soi sáng đủ hết sân gạch rộng.
Từng cầu lúa dài cao nằm song sóng
Đợi thợ về chất đống xếp từng ôm…
Rồi néo tre kếp chặt lấy thân don,
Tay dang thẳng đập ròn trên cối đá.
Ôi sung sướng! Mưa ra vàng! Mưa lúa!
Mưa rào rào. Giọt thóc nặng nề rơi,
Thóc mọng thơm căng sữa ngọt nuôi người,
Nét hoan hỉ trên miệng cười đen nhánh.
Tiếng đập lúa ròn vang trong gió lạnh,
Chen tiếng cười, giọng hát lảnh ngân ngân,
Đem tình xa se lại với duyên gần…
Trăng nhỏn nhoẻn cười thầm trên ngọn trúc.
Ôi vui thú là những giờ hót thóc:
Kẻ trang, cào; kẻ xúc, quét lia lia
Vai chen vai, người nọ vướng người kia,
Tiếng mắng khẽ xen tiếng cười khúc khích…

           *

Rơm lên đống. Thóc đã nằm trong bịch,
Đợi nhẩn nha ngày nắng sẽ đem phơi.
Thợ dừng tay, rũ bụi phấn trên người,
Đoạn rửa ráy, rồi vào ăn bữa tối.
Dưới ánh lửa đèn ba dây đỏ ối,
Họ lại cười, lại nói, lại bông lơn…
Bóng cau gầy đã ngả suốt sân rơm,
Họ mới chịu xoa chân, vào ổ rạ.
Thôn xóm lặng, thiu thiu trong bóng lá,
Trăng phương đoài uể oải cũng lim dim.
Sương rơi rơi, nhạc dế lắng chìm chìm,
Chó từng lúc nghển nhìn trăng sủa rống…

           *

Ta về đây suốt một ngày vui sống
Cùng người quê mải miết với thành công.
Suối mồ hôi năm tháng chảy trên đồng
Đúc thành sữa nơi đầu bông nặng trĩu.
Đồng quê ơi! Hỡi Nông phu! Người chịu
Bao dãi dầu mưa nắng để nuôi ta
– Nuôi giống nòi không một tiếng kêu ca
Sống tăm tối như tre già nấp bụi.
Ta tha thiết cầu mong sao gần gũi
Mãi Người Quê, nơi làng mạc thân yêu,
Mà hôm nay ta cảm mến thương nhiều!


Bắc Việt một mùa gặt thanh bình

*

Hồn Quê Trong Mùa Gặt – Khúc Ca Lao Động Và Yêu Thương

Mùa gặt – đó không chỉ là thời điểm lúa chín vàng trải rộng trên những cánh đồng, mà còn là bức tranh sinh động của cuộc sống làng quê, nơi con người và thiên nhiên giao hòa trong nhịp điệu lao động cần mẫn. Bàng Bá Lân, với tâm hồn nhạy cảm và trái tim gắn bó tha thiết với quê hương, đã tái hiện một cách chân thực và đầy cảm xúc không khí rộn ràng của mùa gặt trong bài thơ Mùa gặt.

Bài thơ không chỉ vẽ lên bức tranh đồng quê yên bình mà còn là lời ngợi ca những người nông dân chân chất, những con người suốt đời gắn bó với ruộng đồng, cống hiến không lời oán than để đem đến bát cơm dẻo ngọt cho đời.

Bản hòa ca của làng quê trong ngày mùa

Bàng Bá Lân mở đầu bài thơ bằng khung cảnh rộn ràng của một buổi sáng mùa gặt. Không gian chưa kịp bừng sáng, sương đêm vẫn còn đọng trên lá, thế nhưng cả làng đã thức dậy, hòa mình vào nhịp điệu tất bật của ngày mùa:

“Gà vừa gáy. Trời mai còn ẩm ướt
Đường trong thôn rầm rập bước chân đi.”

Những âm thanh quen thuộc của làng quê dần hiện lên: tiếng người gọi nhau í ới trong sương sớm, tiếng sát gạo sền sệt trên cầu ao, tiếng bát đũa lanh canh trong bếp… Tất cả tạo nên một bức tranh sinh động về nếp sống lao động của người dân quê trong mùa thu hoạch.

Và rồi, khi mặt trời vừa ló rạng, những dòng người nối nhau tiến ra đồng, với quang cặp, đòn càn, ai nấy đều phấn chấn, háo hức. Khung cảnh hiện lên như một bản giao hưởng tràn đầy sức sống:

“Từ cổng làng từng bọn kéo nhau ra,
Tiếng quang cặp, đòn càn va lách cách.”

Không khí hăng say ấy lan tỏa trên khắp cánh đồng, nơi những bông lúa trĩu hạt đang rì rào theo từng nhịp gió. Người đàn ông xắn quần, người đàn bà vén váy, tất cả cùng lao vào mùa gặt với tinh thần hăng hái, khẩn trương.

Lao động vất vả mà tràn đầy niềm vui

Cảnh gặt hái diễn ra sôi nổi, tiếng lúa đổ rạp, tiếng liềm hái lướt nhanh qua từng gốc lúa. Những con châu chấu, cào cào tung bay lên rồi lại rơi xuống, như cũng hòa vào dòng chảy nhộn nhịp của cánh đồng đang thay da đổi thịt.

“Lúa thức giấc xạc xào trong hỗn độn,
Lúa run run lìa cuống ngã trên tay…”

Thế nhưng, dù lao động vất vả, người nông dân vẫn giữ được niềm vui trong công việc. Giữa biển lúa vàng óng, tiếng hát dân ca vang vọng, quyện vào gió đồng, hòa với nắng sớm:

“Thửa ruộng kia, tiếng ai vừa hát đó.
Giọng thanh thanh theo gió vẳng đưa xa.”

Họ làm việc không chỉ vì miếng cơm manh áo, mà còn vì niềm tự hào với những gì mình tạo ra, vì sự gắn bó thiêng liêng với đất đai quê hương.

Bữa cơm mùa gặt – Hạnh phúc bình dị của người quê

Sau một buổi lao động hăng say, bữa cơm trưa diễn ra đơn giản nhưng đong đầy niềm vui. Đó không phải là những món ăn cao lương mỹ vị, mà chỉ là “cơm muối vừng sàn sạn thế mà ngon, vài quả cà, dưa muối với tương om.”

Không chỉ là bữa ăn, đó còn là khoảng thời gian để người nông dân nghỉ ngơi, tận hưởng sự thư thái sau những giờ lao động cật lực. Họ châm điếu thuốc lào, nhấp ngụm nước vối, nhẩn nha miếng trầu… Những điều bình dị ấy chính là chất keo gắn kết con người với con người, làm nên nét đẹp mộc mạc mà đáng quý của làng quê Việt Nam.

Hội làng sau mùa gặt – Niềm vui trọn vẹn

Khi những bó lúa cuối cùng được gánh về làng, khi mặt trời đã khuất bóng, cũng là lúc làng quê bước vào những giờ phút vui tươi nhất.

“Nhưng khắp làng rộn rịp hội hoa đăng.
Tất cả đèn to nhỏ cháy dăng dăng.”

Đó là đêm của niềm vui, của sự sum vầy. Những đống lúa vàng cao vút như những thành quả xứng đáng cho bao ngày vất vả. Tiếng đập lúa, tiếng cười nói, tiếng hát ngân vang trong gió đêm, như một lời tri ân gửi đến đất trời đã ban tặng một vụ mùa bội thu.

“Ôi sung sướng! Mưa ra vàng! Mưa lúa!
Mưa rào rào. Giọt thóc nặng nề rơi,
Thóc mọng thơm căng sữa ngọt nuôi người.”

Lời tri ân chân thành đến những người làm ra hạt gạo

Bài thơ khép lại với một tấm lòng biết ơn sâu sắc dành cho người nông dân – những con người âm thầm cống hiến để nuôi dưỡng cuộc sống:

“Đồng quê ơi! Hỡi Nông phu! Người chịu
Bao dãi dầu mưa nắng để nuôi ta

– Nuôi giống nòi không một tiếng kêu ca
Sống tăm tối như tre già nấp bụi.”

Những con người ấy, dù không được vinh danh rực rỡ, nhưng họ chính là trụ cột của đất nước, là những người lao động chân chính đã góp phần làm nên sự sống cho bao thế hệ.

Kết luận – Mùa gặt, mùa yêu thương

Mùa gặt không chỉ đơn thuần là bức tranh về cảnh lao động hăng say của người dân quê mà còn là một khúc ca đẹp về tinh thần lạc quan, yêu đời của họ. Qua từng vần thơ, ta không chỉ cảm nhận được sự gian lao của công việc đồng áng mà còn thấy được vẻ đẹp của sự gắn kết, sẻ chia trong đời sống làng quê.

Bàng Bá Lân đã không chỉ viết về một mùa gặt, mà còn viết về tình yêu quê hương, về niềm vui lao động, về những giá trị chân thực mà giản dị nhất trong cuộc sống. Đọc Mùa gặt, ta càng thêm trân trọng những người nông dân – những con người thầm lặng nhưng vĩ đại, những người đã biến những giọt mồ hôi thành những hạt gạo trắng ngần, nuôi sống cả một dân tộc.

*

Bàng Bá Lân – Nhà thơ của hồn quê Việt

Bàng Bá Lân (1912–1988) là một nhà thơ tiêu biểu của văn học Việt Nam hiện đại, nổi bật với những vần thơ mộc mạc, giản dị nhưng thấm đẫm tình quê hương và nhân sinh. Ông là một trong những gương mặt chủ chốt của phong trào Thơ Mới, với phong cách trữ tình, nhẹ nhàng và giàu hình ảnh.

Thơ Bàng Bá Lân phản ánh vẻ đẹp của làng quê Việt Nam, từ những buổi trưa hè, xóm chợ chiều đông đến hình ảnh mái trường làng, vườn dừa xanh mướt. Bên cạnh đó, ông còn có những vần thơ sâu sắc về tình yêu, hoài niệm và triết lý nhân sinh. Các tác phẩm tiêu biểu của ông gồm Trưa hè, Xóm chợ chiều đông, Vườn dừa, Giai nhân…

Không chỉ là nhà thơ, Bàng Bá Lân còn là nhà giáo và nhiếp ảnh gia, để lại dấu ấn sâu đậm trong văn hóa Việt Nam. Thơ ông như một bức tranh làng quê yên bình, là tiếng lòng của những tâm hồn yêu thương vẻ đẹp dung dị mà vĩnh hằng của đất nước.

Viên Ngọc Quý.


Mùa gặt

Gà vừa gáy. Trời mai còn ẩm ướt
Đường trong thôn rầm rập bước chân đi.
Tiếng gọi, thưa ấm ới động sương khuya,
Tiếng sát gạo trên cầu ao sền sệt.
Rồi lửa đỏ bập bùng trong các bếp,
Rồi tiếng mâm va bát động lanh canh
Tiếng cười đùa xen tiếng đũa và nhanh,
Người vội vội. Trống tàn canh gấp gấp…
Trời tang tảng. Sương đào bay lớp lớp,
Cánh đồng quê mờ ngợp khói sương mơ,
Từ cổng làng từng bọn kéo nhau ra,
Tiếng quang cặp, đòn càn va lách cách.
Họ vui vẻ đi nhanh trên đường đất,
Rồi tạt ngang, tản mát khắp đồng quê.
Họ dừng chân bên ruộng ướt sương khuya
Lúa rạp rạp ngả theo chiều gió thổi.
Thợ đàn ông xắn quần lên quá gối,
Thợ đàn bà cao váy xếch hai bên
Để lộ ra những cặp bắp chân đen,
Rồi kẻ hái người liềm xô xuống ruộng.
Lúa thức giấc xạc xào trong hỗn độn,
Lúa run run lìa cuống ngã trên tay…
Lũ cào cào châu chấu sợ tung bay,
Nhưng chớp mắt lại nặng nề rơi xuống.
Liềm hái gặt. Lúa thi nhau lìa cuống,
Nằm ngổn ngang trên ruộng hở màu đen.
Phía trời đông quạt lửa rộng xoè lên,
Cánh đồng bỗng rực tươi màu đỏ ối.
Sương mỏng mỏng nhẹ tan như làn khói
Lúa thơm thơm, rơm mới cũng thơm thơm.
Không khí thơm tho, gió chạy rập rờn,
Làm gợn gợn sóng vàng trên biển lúa.
Thửa ruộng kia, tiếng ai vừa hát đó.
Giọng thanh thanh theo gió vẳng đưa xa.
Rồi đồng quê vang rộn tiếng dân ca,
Tình thắm thiết ngụ trong lời thắm thiết.
Miệng cứ hát, tay cứ làm mải miết,
Làm say mê như quý tiếc thời gian.
Họ như quên không thấy nắng hanh vàng
Dần gay gắt rêu ròn trên nón lá,
Và người họ mồ hôi ra tầm tã
Dán lưng vào manh áo bạc màu nâu…

           *

Mặt trời lên… lên chót vót từ lâu,
Bóng đa đã thu tròn như chiếc tán.
Thợ dừng tay, lên bờ ăn bữa sáng.
Cơm muối vừng sàn sạn thế mà ngon,
Vài quả cà, dưa muối với tương om,
Nước vối loãng chuyên tay… là hết bữa!
Thợ đàn ông thổi mồi rơm lấy lửa.
Vê thuốc lào, rịt điếu, rít vài hơi,
Thở khói phào cuồn cuộn tựa mây trôi,
Vẻ khoan khoái trong tiếng cười dễ dãi.
Thợ đàn bà cũng thong dong mở giải
Yếm, lấy ra vôi vỏ với trầu cau,
Rồi cười cười nói nói thết mời nhau,
Quết trầu thắm tô vành môi cắn chỉ.
Trầu thuốc đoạn, sau nửa giờ tạm nghỉ,
Lại hò nhau hối hả xuống đồng trưa.
Kẻ cắt hoài, kẻ lượm… rất say sưa.
Không nhọc mệt – (ngày mùa ai cũng khoẻ!)
Lúa đã lượm, họ kề vai rất nhẹ,
Gánh xăm xăm về phía cổng làng xa
Trên đường quê lũ bảy, lũ năm ba,
Gánh gánh mãi, về, ra, coi tấp nập.
Chiều càng xuống, người đi càng hấp tấp
Như đàn cò gấp gấp ruổi theo mây,
Gió lạnh lùng, xương bột rắc rây rây,
Chùa đâu đó rỏ hồi chuông lảnh lảnh.

           *

Đồng quê xám mênh mông và vắng lạnh,
Nhưng khắp làng rộn rịp hội hoa đăng.
Tất cả đèn to nhỏ cháy dăng dăng
Không soi sáng đủ hết sân gạch rộng.
Từng cầu lúa dài cao nằm song sóng
Đợi thợ về chất đống xếp từng ôm…
Rồi néo tre kếp chặt lấy thân don,
Tay dang thẳng đập ròn trên cối đá.
Ôi sung sướng! Mưa ra vàng! Mưa lúa!
Mưa rào rào. Giọt thóc nặng nề rơi,
Thóc mọng thơm căng sữa ngọt nuôi người,
Nét hoan hỉ trên miệng cười đen nhánh.
Tiếng đập lúa ròn vang trong gió lạnh,
Chen tiếng cười, giọng hát lảnh ngân ngân,
Đem tình xa se lại với duyên gần…
Trăng nhỏn nhoẻn cười thầm trên ngọn trúc.
Ôi vui thú là những giờ hót thóc:
Kẻ trang, cào; kẻ xúc, quét lia lia
Vai chen vai, người nọ vướng người kia,
Tiếng mắng khẽ xen tiếng cười khúc khích…

           *

Rơm lên đống. Thóc đã nằm trong bịch,
Đợi nhẩn nha ngày nắng sẽ đem phơi.
Thợ dừng tay, rũ bụi phấn trên người,
Đoạn rửa ráy, rồi vào ăn bữa tối.
Dưới ánh lửa đèn ba dây đỏ ối,
Họ lại cười, lại nói, lại bông lơn…
Bóng cau gầy đã ngả suốt sân rơm,
Họ mới chịu xoa chân, vào ổ rạ.
Thôn xóm lặng, thiu thiu trong bóng lá,
Trăng phương đoài uể oải cũng lim dim.
Sương rơi rơi, nhạc dế lắng chìm chìm,
Chó từng lúc nghển nhìn trăng sủa rống…

           *

Ta về đây suốt một ngày vui sống
Cùng người quê mải miết với thành công.
Suối mồ hôi năm tháng chảy trên đồng
Đúc thành sữa nơi đầu bông nặng trĩu.
Đồng quê ơi! Hỡi Nông phu! Người chịu
Bao dãi dầu mưa nắng để nuôi ta
– Nuôi giống nòi không một tiếng kêu ca
Sống tăm tối như tre già nấp bụi.
Ta tha thiết cầu mong sao gần gũi
Mãi Người Quê, nơi làng mạc thân yêu,
Mà hôm nay ta cảm mến thương nhiều!


Bắc Việt một mùa gặt thanh bình

*

Hồn Quê Trong Mùa Gặt – Khúc Ca Lao Động Và Yêu Thương

Mùa gặt – đó không chỉ là thời điểm lúa chín vàng trải rộng trên những cánh đồng, mà còn là bức tranh sinh động của cuộc sống làng quê, nơi con người và thiên nhiên giao hòa trong nhịp điệu lao động cần mẫn. Bàng Bá Lân, với tâm hồn nhạy cảm và trái tim gắn bó tha thiết với quê hương, đã tái hiện một cách chân thực và đầy cảm xúc không khí rộn ràng của mùa gặt trong bài thơ Mùa gặt.

Bài thơ không chỉ vẽ lên bức tranh đồng quê yên bình mà còn là lời ngợi ca những người nông dân chân chất, những con người suốt đời gắn bó với ruộng đồng, cống hiến không lời oán than để đem đến bát cơm dẻo ngọt cho đời.

Bản hòa ca của làng quê trong ngày mùa

Bàng Bá Lân mở đầu bài thơ bằng khung cảnh rộn ràng của một buổi sáng mùa gặt. Không gian chưa kịp bừng sáng, sương đêm vẫn còn đọng trên lá, thế nhưng cả làng đã thức dậy, hòa mình vào nhịp điệu tất bật của ngày mùa:

“Gà vừa gáy. Trời mai còn ẩm ướt
Đường trong thôn rầm rập bước chân đi.”

Những âm thanh quen thuộc của làng quê dần hiện lên: tiếng người gọi nhau í ới trong sương sớm, tiếng sát gạo sền sệt trên cầu ao, tiếng bát đũa lanh canh trong bếp… Tất cả tạo nên một bức tranh sinh động về nếp sống lao động của người dân quê trong mùa thu hoạch.

Và rồi, khi mặt trời vừa ló rạng, những dòng người nối nhau tiến ra đồng, với quang cặp, đòn càn, ai nấy đều phấn chấn, háo hức. Khung cảnh hiện lên như một bản giao hưởng tràn đầy sức sống:

“Từ cổng làng từng bọn kéo nhau ra,
Tiếng quang cặp, đòn càn va lách cách.”

Không khí hăng say ấy lan tỏa trên khắp cánh đồng, nơi những bông lúa trĩu hạt đang rì rào theo từng nhịp gió. Người đàn ông xắn quần, người đàn bà vén váy, tất cả cùng lao vào mùa gặt với tinh thần hăng hái, khẩn trương.

Lao động vất vả mà tràn đầy niềm vui

Cảnh gặt hái diễn ra sôi nổi, tiếng lúa đổ rạp, tiếng liềm hái lướt nhanh qua từng gốc lúa. Những con châu chấu, cào cào tung bay lên rồi lại rơi xuống, như cũng hòa vào dòng chảy nhộn nhịp của cánh đồng đang thay da đổi thịt.

“Lúa thức giấc xạc xào trong hỗn độn,
Lúa run run lìa cuống ngã trên tay…”

Thế nhưng, dù lao động vất vả, người nông dân vẫn giữ được niềm vui trong công việc. Giữa biển lúa vàng óng, tiếng hát dân ca vang vọng, quyện vào gió đồng, hòa với nắng sớm:

“Thửa ruộng kia, tiếng ai vừa hát đó.
Giọng thanh thanh theo gió vẳng đưa xa.”

Họ làm việc không chỉ vì miếng cơm manh áo, mà còn vì niềm tự hào với những gì mình tạo ra, vì sự gắn bó thiêng liêng với đất đai quê hương.

Bữa cơm mùa gặt – Hạnh phúc bình dị của người quê

Sau một buổi lao động hăng say, bữa cơm trưa diễn ra đơn giản nhưng đong đầy niềm vui. Đó không phải là những món ăn cao lương mỹ vị, mà chỉ là “cơm muối vừng sàn sạn thế mà ngon, vài quả cà, dưa muối với tương om.”

Không chỉ là bữa ăn, đó còn là khoảng thời gian để người nông dân nghỉ ngơi, tận hưởng sự thư thái sau những giờ lao động cật lực. Họ châm điếu thuốc lào, nhấp ngụm nước vối, nhẩn nha miếng trầu… Những điều bình dị ấy chính là chất keo gắn kết con người với con người, làm nên nét đẹp mộc mạc mà đáng quý của làng quê Việt Nam.

Hội làng sau mùa gặt – Niềm vui trọn vẹn

Khi những bó lúa cuối cùng được gánh về làng, khi mặt trời đã khuất bóng, cũng là lúc làng quê bước vào những giờ phút vui tươi nhất.

“Nhưng khắp làng rộn rịp hội hoa đăng.
Tất cả đèn to nhỏ cháy dăng dăng.”

Đó là đêm của niềm vui, của sự sum vầy. Những đống lúa vàng cao vút như những thành quả xứng đáng cho bao ngày vất vả. Tiếng đập lúa, tiếng cười nói, tiếng hát ngân vang trong gió đêm, như một lời tri ân gửi đến đất trời đã ban tặng một vụ mùa bội thu.

“Ôi sung sướng! Mưa ra vàng! Mưa lúa!
Mưa rào rào. Giọt thóc nặng nề rơi,
Thóc mọng thơm căng sữa ngọt nuôi người.”

Lời tri ân chân thành đến những người làm ra hạt gạo

Bài thơ khép lại với một tấm lòng biết ơn sâu sắc dành cho người nông dân – những con người âm thầm cống hiến để nuôi dưỡng cuộc sống:

“Đồng quê ơi! Hỡi Nông phu! Người chịu
Bao dãi dầu mưa nắng để nuôi ta

– Nuôi giống nòi không một tiếng kêu ca
Sống tăm tối như tre già nấp bụi.”

Những con người ấy, dù không được vinh danh rực rỡ, nhưng họ chính là trụ cột của đất nước, là những người lao động chân chính đã góp phần làm nên sự sống cho bao thế hệ.

Kết luận – Mùa gặt, mùa yêu thương

Mùa gặt không chỉ đơn thuần là bức tranh về cảnh lao động hăng say của người dân quê mà còn là một khúc ca đẹp về tinh thần lạc quan, yêu đời của họ. Qua từng vần thơ, ta không chỉ cảm nhận được sự gian lao của công việc đồng áng mà còn thấy được vẻ đẹp của sự gắn kết, sẻ chia trong đời sống làng quê.

Bàng Bá Lân đã không chỉ viết về một mùa gặt, mà còn viết về tình yêu quê hương, về niềm vui lao động, về những giá trị chân thực mà giản dị nhất trong cuộc sống. Đọc Mùa gặt, ta càng thêm trân trọng những người nông dân – những con người thầm lặng nhưng vĩ đại, những người đã biến những giọt mồ hôi thành những hạt gạo trắng ngần, nuôi sống cả một dân tộc.

*

Bàng Bá Lân – Nhà thơ của hồn quê Việt

Bàng Bá Lân (1912–1988) là một nhà thơ tiêu biểu của văn học Việt Nam hiện đại, nổi bật với những vần thơ mộc mạc, giản dị nhưng thấm đẫm tình quê hương và nhân sinh. Ông là một trong những gương mặt chủ chốt của phong trào Thơ Mới, với phong cách trữ tình, nhẹ nhàng và giàu hình ảnh.

Thơ Bàng Bá Lân phản ánh vẻ đẹp của làng quê Việt Nam, từ những buổi trưa hè, xóm chợ chiều đông đến hình ảnh mái trường làng, vườn dừa xanh mướt. Bên cạnh đó, ông còn có những vần thơ sâu sắc về tình yêu, hoài niệm và triết lý nhân sinh. Các tác phẩm tiêu biểu của ông gồm Trưa hè, Xóm chợ chiều đông, Vườn dừa, Giai nhân…

Không chỉ là nhà thơ, Bàng Bá Lân còn là nhà giáo và nhiếp ảnh gia, để lại dấu ấn sâu đậm trong văn hóa Việt Nam. Thơ ông như một bức tranh làng quê yên bình, là tiếng lòng của những tâm hồn yêu thương vẻ đẹp dung dị mà vĩnh hằng của đất nước.

Viên Ngọc Quý.

Bạn cũng có thể thích..

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *