Nàng tiên
Đó là một hình dung trang kiều diễm
Của trần gian mơ tưởng tự ngàn xưa.
Khi bình minh sương trĩu cánh hoa tơ
Nghìn sông suối tràn tuôn dòng ánh sáng.
Khói đã cuốn những mảnh hồn lơ lảng
Gió đem về tất cả áng hương xa.
Khi hoàng hôn sương lấp loáng dương tà.
Trăng lệ bóng bên mành tơ liễu biếc
Lá úa rụng đầy quãng đường nhớ tiếc
Với lòng hồ tràn ngập ý bâng khuâng.
Họ đợi nàng đem tiếng trúc cao nâng
Những cảm giác nhiệm mầu lên phơi phới.
Tiếng trúc ấy khi lửng lơ bên sườn núi
Nương gió chiều xa lướt những thanh âm.
Khi chơi vơi trên những áng mây vần
Và trầm lắng trong tâm hồn thương nhớ.
Nhưng gặp nàng riêng có người nghèo khổ
Những tiều phu mục tử chốn hoang vu
Những đêm buồn theo rõi ánh trăng lơ
Cùng chán nản trở về lều trống trải;
Họ thường được nghe những lời từ ái
Của lòng thương tha thiết tặng cơ hàn
Mà người đời đem kể trong văn chương
Như những chuyện tình duyên trong diễm tưởng.
Tuy họ biết trong khoảng trời vô lượng
Với muôn nghìn thanh sắc quyến mê say.
Tâm tình nàng man mác như gió mây
Vượt qua hết muôn cõi lòng rộng rãi.
In trong tập Hương xuân, 1943.
*
Nàng tiên của những tâm hồn khổ hạnh
Từ bao đời nay, con người vẫn mơ về một bóng hình kiều diễm, một nàng tiên bước ra từ những giấc mộng đẹp nhất của nhân gian. Nhà thơ Anh Thơ, bằng những vần thơ nhẹ như sương sớm, đã dệt nên hình ảnh một nàng tiên không chỉ thoát tục, diễm lệ mà còn mang trong mình trái tim nhân hậu, là hiện thân của lòng thương yêu và an ủi dành cho những kiếp người lẻ loi, khốn khó.
Ngay từ những câu thơ đầu tiên, Nàng tiên hiện lên trong vẻ đẹp huyền ảo của thiên nhiên:
“Đó là một hình dung trang kiều diễm
Của trần gian mơ tưởng tự ngàn xưa.
Khi bình minh sương trĩu cánh hoa tơ
Nghìn sông suối tràn tuôn dòng ánh sáng.”
Nàng tiên không chỉ là một con người cụ thể mà là biểu tượng của cái đẹp, của giấc mơ trần thế, là sự hòa quyện giữa thiên nhiên và lòng người. Hình ảnh sương trĩu cánh hoa, ánh sáng tràn tuôn trên sông suối gợi lên một thế giới tinh khôi, nơi vẻ đẹp không tì vết đang hiện hữu trong những khoảnh khắc tinh túy nhất của đất trời.
Nhưng Nàng tiên không phải chỉ là ảo ảnh xa xôi, mà nàng còn là tiếng trúc dịu dàng, là khúc nhạc vang lên trong lòng những ai đang kiếm tìm sự an ủi:
“Họ đợi nàng đem tiếng trúc cao nâng
Những cảm giác nhiệm mầu lên phơi phới.”
Tiếng trúc ấy có khi “lửng lơ bên sườn núi”, có khi “chơi vơi trên những áng mây vần”, nhưng dù ở đâu, nó cũng đem lại sự vỗ về cho những trái tim lạc lõng. Nàng tiên không hiện ra trong những cung điện nguy nga hay giữa chốn phồn hoa đô hội, mà chỉ đến với những tâm hồn nghèo khổ, những kẻ sống đơn độc nơi rừng sâu núi vắng:
“Nhưng gặp nàng riêng có người nghèo khổ
Những tiều phu mục tử chốn hoang vu.”
Nàng không mang phép màu biến họ trở nên giàu có hay thay đổi số phận, nhưng nàng đem đến cho họ điều quý giá hơn – sự đồng cảm, sự an ủi và những lời từ ái mà cuộc đời chưa từng ban tặng.
Ở cuối bài thơ, Anh Thơ đã mở ra một không gian vô tận, nơi nàng tiên không thuộc về riêng ai, mà vượt qua mọi giới hạn để chạm đến trái tim của những kẻ khao khát cái đẹp, cái thiện trong đời:
“Tâm tình nàng man mác như gió mây
Vượt qua hết muôn cõi lòng rộng rãi.”
Bài thơ Nàng tiên không chỉ là một bức tranh lãng mạn mà còn là một triết lý sâu sắc về cái đẹp và lòng trắc ẩn. Cái đẹp không chỉ để chiêm ngưỡng mà còn để sưởi ấm những tâm hồn đơn côi. Và có lẽ, trong cuộc đời này, ai cũng từng ít nhất một lần mong gặp một Nàng tiên như thế – không phải để đổi thay số phận, mà chỉ để tìm thấy một sự an ủi dịu dàng giữa bao bề bộn cuộc đời.
*
Nhà thơ Anh Thơ – Người vẽ tranh quê bằng thơ
Anh Thơ (1918 – 2005), tên thật là Vương Kiều Ân, là một trong những nữ thi sĩ tiêu biểu của văn học Việt Nam hiện đại. Bà nổi tiếng từ năm 17 tuổi với tập thơ Bức tranh quê, đoạt giải khuyến khích của Tự Lực Văn Đoàn, mở ra một hướng đi riêng trong phong trào Thơ mới: thơ về nông thôn, thiên nhiên Bắc Bộ với những hình ảnh bình dị, đầy chất trữ tình.
Sinh ra trong một gia đình Nho học, cuộc sống kín cổng cao tường đã hun đúc trong bà một tâm hồn nhạy cảm, luôn khát khao tự do. Những câu thơ của Anh Thơ không chỉ vẽ nên bức tranh làng quê thanh bình mà còn phản ánh nỗi niềm sâu lắng của người phụ nữ trước những ràng buộc xã hội.
Sau Cách mạng tháng Tám, bà tham gia Việt Minh, giữ nhiều trọng trách trong Hội Phụ nữ, tiếp tục sáng tác thơ ca ngợi người phụ nữ hậu phương, vẻ đẹp cuộc sống mới và tinh thần đấu tranh anh dũng của dân tộc. Bà là một trong những hội viên đầu tiên của Hội Nhà văn Việt Nam, từng giữ vị trí ủy viên Ban chấp hành Hội.
Với những đóng góp lớn cho văn học, Anh Thơ được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật năm 2007. Những vần thơ của bà vẫn mãi ngân vang, gợi lên trong lòng người đọc tình yêu quê hương tha thiết:
“Quán tranh đứng im lìm trong vắng lặng
Bên chòm xoan hoa tím rụng tơi bời…”
(Chiều xuân)
Viên Ngọc Quý.