Ngày nào tôi tháo được trái tim
1-
Người anh em (da nâu) của tôi đói.
Địa ngục sát ngay một bên.
Tôi ngẩn ngơ ngơ ngẩn làm sao, để cho ông chiếm mất miếng thịt bò.
2-
Người anh em (da vàng) của tôi khốn cùng.
Đứa con anh buổi sáng không có củ khoai vào bụng, xỉu ngất trên ghế nhà trường.
Tôi còn lo tranh đấu để chủ nhà đừng tăng tiền nhà, thì ông đã trang bị được máy mới rồi, và tôi thất nghiệp.
3-
Người anh em (da đen) của tôi thiếu ăn mà không ngớt sinh con đẻ cháu.
Anh ơi, sinh ra nhiều quá cơm gạo đâu mà nuôi.
Nhưng anh biết làm sao.
Người vợ không có sữa có cơm, ẵm con bỏ bên vệ đường, hy vọng có người động tâm đem về nuôi dưỡng.
Mười hai triệu trẻ em chết đói tại các nước chậm tiến mỗi năm.
Tôi ngày đêm tranh đấu để tăng đồng lương smic.
Tôi ngày đêm tranh đấu để chống giá sinh hoạt vọt cao.
Thì giờ đâu mà lo lắng cho người anh em khốn khổ.
4-
Người anh em (da trắng ) của tôi làm 3 x 8, ăn ngủ thất thường, từ nhà máy về nổi dóa đập vợ la con.
Địa ngục là ngay đây.
Chúng tôi bận tranh đấu ngay tại nơi này, thì giờ đâu lo cho người anh em chúng tôi nơi khác ?
5-
Ông bảo vì quyền lợi quốc gia, không thể ngưng đà phát triển kinh doanh.
Ông muốn thu dụng tôi vào xưởng chế tạo đạn bom cung cấp về các nước Á Phi chậm tiến.
Tôi thất nghiệp, đói mèm, thiếu điều đưa tay cho ông ràng trói.
Người anh em tôi bên đó thiếu gạo thiếu cơm, nào phải cần đạn cần bom để tương tàn tương hại ?
6-
Vì tôi ngẩn ngơ, ông đã chiếm mất miếng thịt bò.
Vì tôi ngẩn ngơ, ông đã chiếm cái tivi màu, chiếc xe Mustang, ngôi nhà nghỉ mát bên bờ biển.
Ông bảo tôi muốn có nhà có tivi có xe hơi không khó; chỉ cần ký giấy làm việc chung thân.
Tôi đã bị ràng buộc nhiều rồi, không dám theo ông đi vào mê lộ.
Ông bảo tôi gàn dở, phận ốc gánh cái vỏ cứng của mình chưa nổi mà cứ nghĩ chuyện đỡ núi Thái Sơn.
7-
Vốc hạt có thể đem cứu đói người anh em tôi, ông đã dùng chế tạo nên miếng thịt bò.
Đống thịt bò đã cao bằng trái núi. Trái núi che khuất mặt trời, không thấy người thương.
Vốc hạt có thể đem cứu mạng đứa bé giờ này đang nằm thiêm thiếp ở Ethiopie, đã đem làm thành chai rượu.
Rượu tưới lên đống thịt bò. Máu tưới trên người đồng loại.
Ngày nào tôi tháo được trái tim, tôi sẽ nắm được phần thắng trong tay.
(Bài thơ nằm trong tuyển tập “Dấu chân trên cát”)
*
Ngày nào tôi tháo được trái tim – thức tỉnh giữa cõi nhân gian thống khổ
Có những bài thơ như lưỡi dao bén cắt sâu vào tâm thức người đọc. Chúng không được viết ra để làm đẹp câu chữ, không tìm cách vuốt ve cảm xúc, mà là tiếng gào thét từ lương tri, từ một trái tim đã thấy – và không thể quay đi. “Ngày nào tôi tháo được trái tim” của Thiền sư Thích Nhất Hạnh là một bài thơ như vậy: một bản cáo trạng đầy từ bi, đau xót nhưng không phán xét, chỉ để lay người đọc tỉnh dậy giữa cơn mê mang của ích kỷ, vô minh, và tách biệt.
Người anh em (da nâu) của tôi đói.
Địa ngục sát ngay một bên.
Tôi ngẩn ngơ ngơ ngẩn làm sao, để cho ông chiếm mất miếng thịt bò.
Ngay từ những dòng đầu tiên, bài thơ không cần vòng vo mà đi thẳng vào sự thật: một người đói, một người không thấy. Một người rơi vào địa ngục vì thiếu ăn, còn người kia – kẻ đang sống trong vùng an toàn chỉ “ngẩn ngơ ngơ ngẩn”. Sự ngơ ngác ấy không phải là vô tội. Nó là sự lãng quên của kẻ đang sống giữa đủ đầy mà quên mất rằng phần ăn của mình có thể là phần sống của kẻ khác.
Thiền sư không chỉ nói đến một cá nhân. Ngài vẽ nên một bức chân dung toàn cầu về khổ đau và sự dửng dưng:
Người anh em da vàng có con xỉu đói trong lớp học,
người anh em da đen đẻ con không nổi nuôi,
người anh em da trắng kiệt sức, trở về đập vợ mắng con.
Ngài gọi tất cả là “người anh em của tôi” – một sự gắn bó nhân loại vượt qua màu da, biên giới, giai cấp. Chúng ta tưởng mình khác nhau, nhưng khổ đau là điều phổ quát. Không ai thực sự bình yên khi người khác còn đói rét và chiến tranh.
Thế nhưng, chúng ta – những người sống trong thế giới công nghiệp và tiện nghi thường bận rộn trong vòng xoáy của chính mình: tăng lương, chống giá, giữ chỗ ở, mua chiếc xe mới. Và thế là, từng miếng thịt, từng vốc gạo, từng giấc mơ nhỏ của người khác bị đánh đổi, biến mất trong sự thỏa mãn của ta.
Ông bảo tôi muốn có nhà có tivi có xe hơi không khó;
chỉ cần ký giấy làm việc chung thân.
Tôi đã bị ràng buộc nhiều rồi, không dám theo ông đi vào mê lộ.
Trong một khoảnh khắc tỉnh thức hiếm hoi, giọng thơ bỗng trỗi lên sự kháng cự từ lương tri. Tác giả biết rằng mình có thể trở nên “giàu có” hơn, có thể “thành công” hơn nếu chấp nhận đánh đổi linh hồn để sản xuất đạn bom, để phụng sự guồng máy. Nhưng người ấy từ chối đi vào mê lộ. Không phải vì hèn yếu, mà vì trái tim đã nhìn thấy.
Và rồi, đến cuối bài, hình ảnh đẩy đến đỉnh điểm của phẫn nộ tỉnh thức:
Vốc hạt có thể cứu đói người anh em tôi, ông đã dùng chế tạo miếng thịt bò.
Rượu tưới lên đống thịt bò. Máu tưới trên người đồng loại.
Thực phẩm – sự sống đã bị bóp méo thành thứ trang trí cho bữa tiệc. Người ta không thấy được những khuôn mặt gầy guộc ở phía bên kia trái đất, bởi đã bị trái núi thịt bò che khuất mặt trời. Câu thơ không chỉ là một hình ảnh nó là biểu tượng của sự vô minh, của nền văn minh đang ăn chính trái tim của mình mà không hề hay biết.
Và rồi, câu thơ cuối như tiếng chuông buốt lạnh:
Ngày nào tôi tháo được trái tim, tôi sẽ nắm được phần thắng trong tay.
Không phải tháo ra để vứt bỏ, mà là tháo chiếc vỏ ích kỷ bao quanh trái tim ấy. Làm sao ta có thể yêu thương, sẻ chia, nếu trái tim bị bọc trong lớp vỏ của sợ hãi, của tranh giành, của ảo vọng? Thiền sư nói đến phần thắng không phải là chiến thắng ai, mà là chiến thắng chính mình, vượt lên khỏi cái tôi hẹp hòi để thấy và thương thật sự.
“Ngày nào tôi tháo được trái tim” không phải là một bài thơ để thưởng thức mà là để thức tỉnh. Nó không viết bằng mực mà bằng nỗi đau nhân loại và tình thương không biên giới. Thiền sư Thích Nhất Hạnh như một vị Bồ Tát của thời hiện đại đã không né tránh thực tại, không làm đẹp khổ đau bằng triết lý, mà dám chỉ thẳng vào những vết cắt để từ đó, mở ra một con đường của hiểu, của thương, và của hành động.
Bởi khi ta tháo được trái tim là khi ta thôi sống như một cá thể đơn lẻ, và bắt đầu sống như một con người trong cõi người.
*
Thiền sư Thích Nhất Hạnh – Vị sứ giả của hòa bình và chánh niệm
Thiền sư Thích Nhất Hạnh (1926–2022) là một trong những vị thiền sư lỗi lạc và có ảnh hưởng sâu rộng nhất của Phật giáo thế giới đương đại. Không chỉ là một nhà tu hành, ngài còn là nhà văn, nhà thơ, học giả, nhà hoạt động xã hội vì hòa bình và người tiên phong đưa chánh niệm (mindfulness) vào đời sống thường nhật một cách thiết thực, giản dị nhưng sâu sắc.
Sinh ra tại tỉnh Thừa Thiên Huế, Việt Nam, Thích Nhất Hạnh xuất gia từ năm 16 tuổi tại chùa Từ Hiếu. Sau quá trình tu học và nghiên cứu, ngài đã có nhiều đóng góp quan trọng cho Phật giáo hiện đại, đặc biệt là trong việc kết nối tinh thần đạo Phật với các vấn đề xã hội. Ngài là người sáng lập Dòng tu Tiếp Hiện, Làng Mai (Plum Village) ở Pháp – một trung tâm tu học nổi tiếng thu hút hàng nghìn người từ khắp nơi trên thế giới.
Thông qua hàng trăm tác phẩm viết bằng tiếng Việt, tiếng Anh và các ngôn ngữ khác, Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã truyền cảm hứng cho hàng triệu người về lối sống tỉnh thức, từ bi và không bạo lực. Những khái niệm như “hơi thở ý thức”, “thiền đi”, “an trú trong hiện tại” trở nên gần gũi với nhiều người nhờ vào cách giảng giải mộc mạc, giàu hình ảnh của ngài. Các tác phẩm tiêu biểu như Phép lạ của sự tỉnh thức, Đường xưa mây trắng, An lạc từng bước chân, Giận … là những cuốn sách được yêu mến và tìm đọc rộng rãi.
Trong suốt cuộc đời, ngài cũng là một nhà hoạt động tích cực cho hòa bình. Năm 1967, ngài được mục sư Martin Luther King Jr. đề cử Giải Nobel Hòa bình nhờ những nỗ lực vận động chấm dứt chiến tranh Việt Nam bằng con đường đối thoại và bất bạo động.
Ảnh hưởng và di sản của ngài không chỉ lan rộng trong cộng đồng Phật giáo mà còn được quốc tế ghi nhận sâu sắc. Năm 2011, khu tượng đài “Remember Them: Champions for Humanity” với diện tích khoảng 100m2 được đặt tại khu công viên Henry J. Kaiser Memorial, thành phố Oakland, tiểu bang California (Hoa Kỳ). Bức tượng điêu khắc chân dung 25 nhân vật nổi tiếng còn sống và đã qua đời, đã có cống hiến lớn lao vì quyền con người trên thế giới. Thiền sư Thích Nhất Hạnh là một trong số những nhân vật được chọn để thể hiện trên tượng đài này, với những đóng góp của ngài cho công cuộc xây dựng hòa bình của nhân loại.
Vào ngày 11 tháng 4 năm 2025, thành phố New York đã chính thức đồng đặt tên đoạn đường West 109th Street (từ Riverside Drive đến Broadway) là “Thích Nhất Hạnh Way” để vinh danh Thiền sư Thích Nhất Hạnh. Đây là nơi ngài từng sống và giảng dạy trong những năm 1960 khi theo học tại Union Theological Seminary và giảng dạy tại Đại học Columbia./.
Viên Ngọc Quý