Ngũ Hành Sơn (tiền)
Lên chơi hòn Non Nước
Gót trổ ngọc song song
Chàng ơi đêm đã ướt
Mắt sao trên sườn cong
Long lanh ngời sáng, mướt
Là gấm hay là nhung
Dệt lên đá lung linh
Những hình điêu khắc nổi
Sặc sỡ voi uốn ngà
Cánh dơi nghe phất phới
Tiên đồng bước giữa hoa
Mục đồng lưng trâu cỡi
Thổi sáo bên rừng mai
Bí mật trời Thiên Thai
Động Huyền Không bốc khói
Lờ mờ đường lên mây
Chén trăng vừa tầm với
Chàng ơi vàng ròng đây
Kề môi say ân ái
Nhàu nhàu đêm rêu xanh
Dầu dầu màn sương quỳnh
Là là buông ren lụa
Gót trố gần mà xa…
Hiện lên đồi thạch nhũ
Sữa trắng như tuyết pha
(Nhi nhỉ nơi một vú)
Chàng ơi lòng vừa sao
Khi hứng giọt thơm ngào
Thôi lên đài Vọng Hải
Nhìn kim cương rưng rưng
Nhạc vàng đâu bay lại
Trời nước lộn trong sương
Hình trập trùng múa nhảy
Trên nền sóng rung rinh
Những tiên nữ trắng tinh
Ngang thân làn biếc khoả
Ti trúc nhấn gần xa
Lay bay hơi báu toả
Miệng nào rục điệu ca
Tóc nào buông loã xoã
Mắt nào điện long lanh
Tay nào như sáp bay
Gió lồng hang Âm Phủ
Hoa mộng thấm màu thâm
Bóng đa phờ tóc rũ
Ô con tinh đứng nằm
Đưa võng hát ru con
Điệu buồn trơn giọng cú
Làm ứa mảnh trăng lòn
Hai ta là mảnh vỡ
Của ngai báu thiên đường
Hai ta là chất bổ
Cắn ở trái Đau Thương
Chàng ơi đêm nín thở
Để hồn biến ra hương
Chập chờn trong nữ yêu
Vào ra theo răng lựu
Chập chờn trong ba tiêu
Dường mưa thu nhỏ giọt
Chập chờn trong tiếng chuông
Điểm kinh ngân thánh thót
Chập chờn trong bể sương
Lượn theo nếp y thường
Hai ta là mảnh vỡ
Của ngai báu thiên đường
Hai ta là chất bổ
Cắn ở trái Đau Thương
Ái ân là Ô Thước
Cây ngọc trổ văn chương
Lên chơi hòn Non Nước
Ôm nhau chết bên đường
Mơ màng trăng hạc rước…
1941
*
Ngũ Hành Sơn – Cõi Mộng Giữa Đá Và Hương
Có những bài thơ không chỉ là thơ, mà còn là một giấc mộng, một thế giới siêu thực mà khi bước vào, ta như lạc vào một miền tiên giới vừa huyền ảo, vừa mê đắm. Ngũ Hành Sơn (tiền) của Bích Khê là một tác phẩm như thế – một bản giao hòa giữa thiên nhiên, tình yêu và huyền thoại, nơi mà từng dòng thơ như một dòng suối mát chảy qua tâm hồn, vừa dịu dàng, vừa ám ảnh.
Vũ điệu của ánh sáng và đá
“Lên chơi hòn Non Nước
Gót trổ ngọc song song
Chàng ơi đêm đã ướt
Mắt sao trên sườn cong”
Bích Khê mở đầu bài thơ bằng một lời gọi mời đầy chất mộng, một bước chân nhẹ nhàng nhưng chan chứa thi vị. Ngũ Hành Sơn không còn là một dãy núi đá vô tri mà trở thành một miền cổ tích, nơi ánh sáng, đá và tình yêu giao thoa. Đá không còn lạnh lẽo mà lung linh như được dệt từ gấm, từ nhung.
“Là gấm hay là nhung
Dệt lên đá lung linh”
Từ đá, từ ánh sao, từ những bóng hình ẩn hiện trên vách núi, Bích Khê vẽ nên một bức tranh huyễn mộng với những điêu khắc nổi, với voi uốn ngà, cánh dơi phấp phới, tiên đồng bước giữa hoa, mục đồng thổi sáo bên rừng mai. Cả một thế giới cổ tích bỗng dưng sống dậy trong không gian kỳ diệu của Ngũ Hành Sơn.
Cõi tiên và tình yêu ngây ngất
“Bí mật trời Thiên Thai
Động Huyền Không bốc khói
Lờ mờ đường lên mây
Chén trăng vừa tầm với”
Tác giả như lạc vào một chốn bồng lai, nơi mà chỉ cần với tay là chạm được chén trăng, nơi sương khói như vẫy gọi con người đi sâu hơn vào cõi huyền hoặc. Và ở đó, không chỉ có cảnh sắc, mà còn có ái ân, có say mê, có một cặp tình nhân hòa vào trời đất:
“Chàng ơi vàng ròng đây
Kề môi say ân ái
Nhàu nhàu đêm rêu xanh
Dầu dầu màn sương quỳnh”
Tình yêu trong thơ Bích Khê không đơn thuần là cảm xúc trần tục, mà là một sự giao hòa giữa con người và vũ trụ. Sự đê mê của ân ái không chỉ là nhục cảm, mà còn là sự tràn ngập của cái đẹp, của thiêng liêng. Những hình ảnh “sữa trắng như tuyết pha” hay “gót trố gần mà xa” tạo nên một không gian ái tình mơ hồ, vừa hiện hữu vừa hư ảo, như thể người yêu chỉ là một bóng hình trong mộng.
Thiên đường, đau thương và sự siêu thoát
“Hai ta là mảnh vỡ
Của ngai báu thiên đường
Hai ta là chất bổ
Cắn ở trái Đau Thương”
Tình yêu trong thơ Bích Khê không chỉ là sự thăng hoa, mà còn là một nghịch lý giữa thiên đường và đau khổ. Ông ví hai người như những mảnh vỡ của một ngai báu thiêng liêng, như những hương vị ngọt đắng từ trái Đau Thương. Đó chính là sự đối lập giữa mộng và thực, giữa đê mê và bi ai, giữa hạnh phúc tột cùng và nỗi đau vô hạn.
Không chỉ dừng lại ở tình yêu nam nữ, bài thơ còn mở rộng thành một triết lý lớn hơn về nhân sinh. Tác giả hình dung tình yêu như một cây ngọc trổ hoa, như những dòng văn chương bất tận:
“Ái ân là Ô Thước
Cây ngọc trổ văn chương”
Và rồi, bài thơ khép lại bằng một hình ảnh đầy ám ảnh và bi tráng:
“Lên chơi hòn Non Nước
Ôm nhau chết bên đường
Mơ màng trăng hạc rước…”
Đỉnh cao của tình yêu không phải là sở hữu, mà là sự hòa tan vào vũ trụ, là cái chết trong vòng tay nhau, như một sự giải thoát khỏi trần thế để trở về với vĩnh hằng.
Lời kết
Ngũ Hành Sơn (tiền) không đơn thuần là một bài thơ về cảnh sắc, mà là một bản giao hưởng của thiên nhiên, ái tình và triết lý nhân sinh. Ở đó, Bích Khê không chỉ mô tả một danh thắng nổi tiếng, mà còn biến nó thành một cõi mộng, nơi tình yêu thăng hoa trong cảnh sắc thần tiên, nơi con người chạm tới cả thiên đường lẫn địa ngục trong cùng một khoảnh khắc.
Bài thơ là một sự kết hợp hoàn mỹ giữa lãng mạn, tượng trưng và siêu thực, giữa vẻ đẹp của tạo hóa và những cảm xúc mãnh liệt nhất của con người. Và cuối cùng, điều đọng lại là một giấc mộng, một nỗi ám ảnh đẹp đến nao lòng – một giấc mộng mà có lẽ, khi bước vào, không ai muốn rời xa.
*
Bích Khê – Thi sĩ tài hoa của nền thơ hiện đại Việt Nam
Bích Khê (1916 – 1946), tên thật là Lê Quang Lương, là một nhà thơ tiêu biểu của phong trào Thơ Mới Việt Nam. Ông sinh ra trong một gia đình nho học yêu nước tại Quảng Ngãi. Từ nhỏ, ông đã bộc lộ năng khiếu thi ca với thơ Đường luật và ca trù. Tuy nhiên, bước ngoặt trong sáng tác của ông đến từ sự ảnh hưởng của Hàn Mặc Tử, khi ông chuyển sang thể thơ mới với phong cách tượng trưng và siêu thực.
Tác phẩm nổi bật nhất của Bích Khê là Tinh Huyết (1939), được xem như một hiện tượng trong nền thơ Việt Nam thời bấy giờ. Thơ ông giàu chất nhạc, hình tượng táo bạo, kết hợp giữa cảm xúc mãnh liệt và sự tìm tòi đổi mới. Hoài Thanh từng nhận xét rằng ông có những câu thơ hay nhất Việt Nam, còn Hàn Mặc Tử ca ngợi thơ ông như “đóa hoa thần dị”.
Mắc bệnh phổi từ sớm, cuộc đời Bích Khê đầy bi kịch nhưng cũng để lại dấu ấn sâu sắc. Ông qua đời năm 1946 khi mới 30 tuổi, để lại một di sản thơ ca độc đáo, góp phần làm phong phú nền thi ca Việt Nam.
Viên Ngọc Quý.