Ngùi trông về Bắc
Dừng bước nơi đây, lòng ngổn ngang,
Ngùi trông về Bắc nhớ tre làng,
Nhớ cây đa cỗi bên chùa vắng,
Nhớ mảnh ao bèo gió lạnh sang.
Nhớ giải đê cao lũ mục đồng
Trong chiều nắng nhạt bước thong dong.
Nhớ cô thôn nữ khăn to hó,
Môi thắm trầu thơm, má ửng hồng.
Nhớ tiếng xì xòm tát nước đêm,
Tiếng chày giã gạo rất bình yên,
Tiếng chim cu gáy trong trưa lặng,
Tiếng võng trưa hè ru ngủ êm.
– “Ạ ời! Em ngủ đi em!
Mẹ còn đi chợ làng bên chưa về.
Cha còn tát nước trong khe,
Anh bừa, chị cấy ngoài kia… Ạ ời!”
Đồng quê Bắc Việt ơi!
Người quê Bắc Việt ơi!
Hôm nay trời trở rét rồi phải không?
Hôm nay cơn gió giải đồng,
Lay bông lúa sớm hương nồng thơm đưa.
Bây giờ, ôi! biết bao giờ
Cho ta lại đứng trên bờ đê cao?
Thả hồn lưu luyến xôn xao
Rung theo tiếng sáo diều cao lững lờ!
Sài Gòn, cuối thu 1954
*
Ngùi Trông Về Bắc – Nỗi Nhớ Quê Hương Da Diết Trong Lòng Người Xa Xứ
Bàng Bá Lân là một trong những nhà thơ tiêu biểu của thơ ca Việt Nam thế kỷ XX, với phong cách giản dị mà sâu sắc, trữ tình mà thấm đượm nỗi lòng. Ngùi trông về Bắc là một bài thơ mang đầy tâm trạng của một người con xa quê, đứng giữa đất khách mà lòng đau đáu hướng về nơi chôn nhau cắt rốn – miền Bắc yêu dấu.
Được viết vào cuối thu năm 1954, trong bối cảnh lịch sử đầy biến động, bài thơ không chỉ là nỗi nhớ quê đơn thuần mà còn chất chứa sự chia ly, tiếc nuối và khát vọng được trở về. Qua những vần thơ đầy cảm xúc, ta cảm nhận được nỗi lòng của tác giả – một trái tim luôn hướng về quê mẹ với từng hình ảnh thân thương nhất.
Nỗi niềm của kẻ xa quê
Mở đầu bài thơ là một cảnh tượng đầy bâng khuâng:
“Dừng bước nơi đây, lòng ngổn ngang,
Ngùi trông về Bắc nhớ tre làng.”
Chỉ với hai câu thơ, tác giả đã vẽ nên tâm trạng của người xa quê: nỗi buồn man mác, trăn trở giữa đất khách quê người. “Dừng bước nơi đây” không chỉ là một hành động dừng chân tạm thời, mà còn mang ý nghĩa của sự ngưng đọng trong tâm hồn – một khoảng lặng để hồi tưởng, để nhớ về miền quê thân thương.
Và rồi, ký ức như một dòng chảy tràn về, đưa tác giả trở lại những hình ảnh quen thuộc:
“Nhớ cây đa cỗi bên chùa vắng,
Nhớ mảnh ao bèo gió lạnh sang.”
Cây đa, chùa vắng, ao bèo – những biểu tượng quen thuộc của làng quê Bắc Bộ hiện lên trong nỗi nhớ, không chỉ là cảnh vật mà còn là hơi thở, là một phần máu thịt của người xa xứ. Cảnh làng quê ấy giờ đây chỉ còn trong ký ức, trong sự “ngùi trông” đầy day dứt.
Hồi ức về những con người và âm thanh thân thuộc
Không chỉ nhớ cảnh, tác giả còn nhớ đến con người – những dáng hình bình dị mà thân thương vô cùng:
“Nhớ giải đê cao lũ mục đồng
Trong chiều nắng nhạt bước thong dong.
Nhớ cô thôn nữ khăn to hó,
Môi thắm trầu thơm, má ửng hồng.”
Những đứa trẻ chăn trâu thong dong trên đê cao, hình ảnh cô thôn nữ má hồng, khăn vấn đầu duyên dáng – tất cả như một bức tranh làng quê đẹp đẽ, hồn hậu. Đó không chỉ là những cảnh tượng đơn thuần mà còn là những gì thân thương nhất mà tác giả từng gắn bó, từng sống trọn vẹn trong ký ức tuổi thơ.
Nỗi nhớ ấy không chỉ dừng lại ở hình ảnh, mà còn vang vọng qua âm thanh:
“Nhớ tiếng xì xòm tát nước đêm,
Tiếng chày giã gạo rất bình yên,
Tiếng chim cu gáy trong trưa lặng,
Tiếng võng trưa hè ru ngủ êm.”
Quê hương không chỉ là một nơi chốn, mà còn là những âm thanh thân thuộc, gợi nhớ một thời bình yên. Tiếng tát nước đêm rì rầm, tiếng chày giã gạo vang lên trong từng nhịp sống, tiếng chim cu gáy gọi những buổi trưa hè, và cả tiếng võng đu đưa trong lời ru của mẹ. Những âm thanh ấy như một bản nhạc đồng quê mộc mạc, nhưng chứa đựng biết bao yêu thương, biết bao ấm áp của một thời thơ ấu.
Lời ru – Hơi ấm quê hương trong lòng người xa xứ
Đặc biệt, bài thơ có đoạn tác giả tái hiện lại một lời ru:
“Ạ ời! Em ngủ đi em!
Mẹ còn đi chợ làng bên chưa về.
Cha còn tát nước trong khe,
Anh bừa, chị cấy ngoài kia… Ạ ời!”
Lời ru ấy không chỉ là âm thanh của tuổi thơ, mà còn là sự gắn kết giữa các thế hệ trong gia đình Việt Nam. Một lời ru giản dị nhưng chan chứa tình cảm, đưa ta trở về những ngày xưa cũ, khi quê hương còn là bến bờ bình yên nhất.
Nỗi lòng đau đáu – Quê hương nơi xa vời vợi
Và rồi, nỗi nhớ ấy vỡ òa thành tiếng gọi tha thiết:
“Đồng quê Bắc Việt ơi!
Người quê Bắc Việt ơi!”
Như một tiếng lòng vọng về miền quê xa xôi, tác giả tha thiết gọi tên quê hương, như muốn chạm vào một điều gì đó đã trở thành ký ức. Ông tự hỏi, quê nhà bây giờ ra sao? Trời đã trở rét chưa? Cơn gió mùa đã thổi qua những cánh đồng chưa?
“Hôm nay trời trở rét rồi phải không?
Hôm nay cơn gió giải đồng,
Lay bông lúa sớm hương nồng thơm đưa.”
Những câu hỏi ấy như một lời độc thoại, một sự tiếc nuối khôn nguôi. Dù đang ở phương xa, tác giả vẫn cảm nhận được từng hơi thở của quê hương, từng cơn gió thổi qua cánh đồng lúa, từng mùi hương quen thuộc.
Và rồi, nỗi nhớ ấy đọng lại trong niềm khao khát:
“Bây giờ, ôi! biết bao giờ
Cho ta lại đứng trên bờ đê cao?
Thả hồn lưu luyến xôn xao
Rung theo tiếng sáo diều cao lững lờ!”
Câu hỏi “biết bao giờ” đầy tiếc nuối, bởi lẽ tác giả hiểu rằng quê hương giờ đây đã xa vời vợi. Hình ảnh bờ đê cao, tiếng sáo diều lơ lửng trên bầu trời xanh là biểu tượng của tuổi thơ, của những ngày bình yên đã mất.
Thông điệp của bài thơ – Nỗi nhớ quê và niềm đau chia ly
Bài thơ không chỉ đơn thuần là nỗi nhớ quê hương mà còn mang một tầng ý nghĩa sâu sắc hơn. Nó được viết vào cuối năm 1954, khi đất nước chia cắt hai miền. Nỗi nhớ quê trong thơ Bàng Bá Lân không chỉ là nhớ cảnh, nhớ người, mà còn là niềm đau của sự chia ly, khi quê hương và con người bị ngăn cách bởi thời cuộc.
Tác giả không chỉ nhớ quê mà còn mong mỏi một ngày được trở về. Nhưng liệu ngày đó có đến hay không? Đó là câu hỏi bỏ ngỏ, là niềm khắc khoải mà bất cứ ai từng xa quê đều thấu hiểu.
Kết luận – Một bài thơ chan chứa tình cảm
Ngùi trông về Bắc không chỉ là một bài thơ tả cảnh hay tả tình, mà còn là một khúc hoài niệm đầy xúc động của một người con xa quê. Bàng Bá Lân đã vẽ lên bức tranh quê hương bằng ngôn từ giản dị nhưng giàu hình ảnh, với từng chi tiết nhỏ bé nhưng chan chứa yêu thương.
Đó không chỉ là nỗi nhớ của riêng tác giả, mà còn là nỗi nhớ chung của biết bao người con xa xứ, những người luôn mong mỏi một ngày được trở về, đứng trên mảnh đất quê hương và nghe lại tiếng sáo diều thuở nào…
*
Bàng Bá Lân – Nhà thơ của hồn quê Việt
Bàng Bá Lân (1912–1988) là một nhà thơ tiêu biểu của văn học Việt Nam hiện đại, nổi bật với những vần thơ mộc mạc, giản dị nhưng thấm đẫm tình quê hương và nhân sinh. Ông là một trong những gương mặt chủ chốt của phong trào Thơ Mới, với phong cách trữ tình, nhẹ nhàng và giàu hình ảnh.
Thơ Bàng Bá Lân phản ánh vẻ đẹp của làng quê Việt Nam, từ những buổi trưa hè, xóm chợ chiều đông đến hình ảnh mái trường làng, vườn dừa xanh mướt. Bên cạnh đó, ông còn có những vần thơ sâu sắc về tình yêu, hoài niệm và triết lý nhân sinh. Các tác phẩm tiêu biểu của ông gồm Trưa hè, Xóm chợ chiều đông, Vườn dừa, Giai nhân…
Không chỉ là nhà thơ, Bàng Bá Lân còn là nhà giáo và nhiếp ảnh gia, để lại dấu ấn sâu đậm trong văn hóa Việt Nam. Thơ ông như một bức tranh làng quê yên bình, là tiếng lòng của những tâm hồn yêu thương vẻ đẹp dung dị mà vĩnh hằng của đất nước.
Viên Ngọc Quý.