Người cách sông rồi… tôi cách sông
Tôi còn mong ngóng làm chi nữa,
Đò đã đưa ngang tự buổi nào.
Sông nước có buồn nhưng cùng bến,
Nhưng mà tôi biết nói làm sao.
Đôi lòng một biết với hai quen,
Mắt giãi ân cần miệng kết duyên,
Thương mến đã không đành kiếp chị,
Nhỡ nhàng đâu dám nhận tình em.
Một mối duyên thơ giữa bụi trần,
Hoa còn toan thắm cuối mùa xuân.
Chao ôi! Không nói thì oan uổng,
Không nói sao đành với ái ân.
Để gặp làm chi một buổi đầu,
Để rồi e ấp mãi về sau.
Thì thôi người cứ yên tâm nhá,
Tôi chẳng bao giờ dám nói đâu.
Đừng có mong chờ với nhớ thương,
Đừng yêu tôi nữa, hỡi mười phương.
Cho tôi được mãi làm du khách,
Thả cái u tình với gió sương.
Đã biết vườn đào có chủ nhân,
Nhưng mà ai cấm khách du xuân.
Khách tôi một vạn lần trong sạch,
Cho được qua đây một vạn lần.
Thế thôi, chả dám mong gì nữa,
Chả dám chia đôi một tấm lòng.
Người ở, gió xuân nhiều đấy nhỉ,
Tôi về, lá rụng khắp tường đông.
Thương nhớ để mình tôi chịu vậy,
Âm thầm một chuyến nữa cho xong,
Tuy gang tấc đấy mà tôi biết,
Người cách sông rồi, tôi cách sông.
*
Cách một dòng sông, cách cả một đời yêu: Lặng thầm trong thơ Nguyễn Bính
Trong suốt hành trình thi ca của mình, Nguyễn Bính chưa bao giờ thôi khắc khoải về những mối duyên dở dang. Ông là thi sĩ của những yêu thương không thành, của những cuộc tình chỉ đủ đầy trong im lặng và lỡ làng. “Người cách sông rồi… tôi cách sông” là một trong những bài thơ tình sâu lắng và bi thiết nhất của Nguyễn Bính, nơi trái tim người thi sĩ thổn thức giữa một đôi bờ: bên này là yêu thương, bên kia là định mệnh.
Tôi còn mong ngóng làm chi nữa,
Đò đã đưa ngang tự buổi nào.
Sông nước có buồn nhưng cùng bến,
Nhưng mà tôi biết nói làm sao.
Mở đầu bằng sự từ bỏ – không than trách, không tiếc nuối kêu gào – mà là một sự buông tay dịu dàng, chấp nhận. Hình ảnh “đò đã đưa ngang” không chỉ là con đò vật lý, mà là con đò định mệnh: người đã sang bên kia bờ, sang một cuộc đời khác, một mối duyên khác. Câu thơ “sông nước có buồn nhưng cùng bến” càng khiến người đọc thắt lòng – buồn, nhưng vẫn được gần nhau, được ở bên nhau. Còn ở đây, “tôi biết nói làm sao” – là sự bất lực của người đứng ở bờ bên này, muốn bày tỏ mà không thể, muốn giữ mà không còn quyền.
Đôi lòng một biết với hai quen,
Mắt giãi ân cần miệng kết duyên,
Thương mến đã không đành kiếp chị,
Nhỡ nhàng đâu dám nhận tình em.
Tình cảm ấy không phải không có, không phải chỉ là ảo mộng của một phía. Đã từng có ánh mắt, có nụ cười, có những ngầm hiểu và gần gũi. Nhưng rồi, mọi thứ chỉ dừng lại ở “thương mến”, không vượt qua được danh phận và định kiến. Câu thơ “Thương mến đã không đành kiếp chị” là một nét chạm rất đặc sắc của Nguyễn Bính – vừa là tự trọng, vừa là tự dằn lòng. Còn chữ “em” – tượng trưng cho tình yêu trẻ trung, tha thiết – đành gác lại, vì chỉ cần nhận thôi, là đã đủ để mang tiếng “nhỡ nhàng”.
Một mối duyên thơ giữa bụi trần,
Hoa còn toan thắm cuối mùa xuân.
Chao ôi! Không nói thì oan uổng,
Không nói sao đành với ái ân.
Duyên thơ – là thứ duyên mong manh nhất, nhưng cũng đẹp đẽ và tinh khiết nhất. Người thi sĩ yêu bằng những vần thơ, bằng những xúc động mơ hồ, bằng vẻ đẹp của một bông hoa cuối xuân vẫn cố thắm nốt lần cuối. Và rồi, tự hỏi mình: không nói thì phí, mà nói ra thì đành sao? Đó là nỗi giằng co muôn thuở của người yêu nhưng không thể.
Để gặp làm chi một buổi đầu,
Để rồi e ấp mãi về sau.
Thì thôi người cứ yên tâm nhá,
Tôi chẳng bao giờ dám nói đâu.
Khúc ca tình yêu dần chuyển thành khúc độc thoại đầy xót xa. Tất cả bắt đầu từ “một buổi đầu” – một lần gặp gỡ, một lần ánh mắt chạm nhau – rồi thành bao nhiêu tháng năm e ngại, e dè. Người thi sĩ không oán trách, chỉ lặng lẽ cất đi tình yêu vào lòng, tự hứa với mình: “tôi chẳng bao giờ dám nói đâu”. Một lời hứa chạm đến tận đáy câm lặng của yêu thương.
Đừng có mong chờ với nhớ thương,
Đừng yêu tôi nữa, hỡi mười phương.
Cho tôi được mãi làm du khách,
Thả cái u tình với gió sương.
Thơ Nguyễn Bính chưa bao giờ khẩn khoản tình yêu cho riêng mình. Trong bài thơ này, ông lại càng thiết tha xin người đừng yêu. Câu thơ “Cho tôi được mãi làm du khách” nghe nhẹ tênh, nhưng ẩn chứa nỗi đau đến chảy máu. Làm du khách – nghĩa là không bám víu, không dừng lại, chỉ ghé qua, nhìn một lần rồi đi. Và tình yêu, với ông, chỉ là “u tình” – nỗi sầu muộn mênh mang, thả theo gió sương, theo những chuyến đi không bến đỗ.
Đã biết vườn đào có chủ nhân,
Nhưng mà ai cấm khách du xuân.
Khách tôi một vạn lần trong sạch,
Cho được qua đây một vạn lần.
Vẫn là một cách yêu rất Nguyễn Bính: yêu nhưng không đòi hỏi, yêu mà giữ lễ, giữ khoảng cách. Người đã thuộc về người khác – “vườn đào có chủ” – nhưng tình cảm vẫn còn, ánh nhìn vẫn còn. Chỉ xin được ngắm, được đi qua, không làm tổn hại, không làm xáo trộn – một tình yêu tuyệt đối trong sạch, nhưng cũng tuyệt đối cô đơn.
Thế thôi, chả dám mong gì nữa,
Chả dám chia đôi một tấm lòng.
Người ở, gió xuân nhiều đấy nhỉ,
Tôi về, lá rụng khắp tường đông.
Cuối cùng, tình yêu được khép lại bằng một cuộc chia ly không nước mắt. Người ở lại, cùng “gió xuân” – biểu tượng của sự sống, hạnh phúc. Còn thi sĩ “về” – trở về phía “tường đông” – nơi mùa thu đã sang, nơi “lá rụng” như lòng tan tác. Hai thế giới ấy giờ chỉ còn có thể nhìn nhau qua một dòng sông.
Thương nhớ để mình tôi chịu vậy,
Âm thầm một chuyến nữa cho xong,
Tuy gang tấc đấy mà tôi biết,
Người cách sông rồi, tôi cách sông.
Bốn câu cuối là sự thắt nút lặng lẽ nhưng day dứt. Tình yêu này không có người thứ ba chia cắt, không có biến cố lớn lao, chỉ là… cách một dòng sông. Nhưng sông ấy không chỉ là khoảng cách địa lý, mà là khoảng cách số phận, định kiến, cam chịu. Cái cách mà Nguyễn Bính viết “người cách sông rồi, tôi cách sông” là một sự lặp lại nhưng đau đớn hơn, bởi ông biết: chúng ta gần, nhưng không bao giờ với tới nhau.
“Người cách sông rồi… tôi cách sông” là một trong những bài thơ tình hay nhất của Nguyễn Bính, vì nó hội tụ đầy đủ tinh thần thơ ông: thiết tha mà không đòi hỏi, gần gụi mà vẫn cách biệt, chân thành nhưng không bao giờ bước qua lằn ranh danh dự. Bài thơ khép lại, nhưng dư âm của nó vẫn ngân vang – như tiếng mái chèo cắm xuống dòng nước lặng, như một ánh mắt dõi theo bóng người xa dần bên kia sông mà chẳng thể gọi quay về. Và ở bờ bên này, chỉ còn lại một trái tim, thổn thức mãi với một mối tình… không dám gọi tên.
*
Nguyễn Bính (1918-1966) là một trong những nhà thơ nổi bật của phong trào Thơ mới Việt Nam. Ông được biết đến với phong cách mộc mạc, giản dị, đậm chất dân gian và mang hồn quê sâu sắc. Thơ Nguyễn Bính thường gắn với hình ảnh thôn quê, con người bình dị và những chuyện tình duyên đầy cảm xúc, thể hiện một tâm hồn tha thiết với truyền thống. Một số bài thơ tiêu biểu như Lỡ bước sang ngang, Tương tư, Chân quê… đã để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng bạn đọc nhiều thế hệ.
Viên Ngọc Quý