Cảm nhận bài thơ: Người nữ quân y chiến khu – Anh Thơ

Người nữ quân y chiến khu

 

Một đôi dậu, một chiếc thuổng con.
Bà Páo đi, giữa đoàn quân Giải phóng
Váy áo chàm bay theo tóc trắng
Từ đỉnh Khâu Nhi, xuống núi Nà Lừa.
Bàn tay già hái lá sớm trưa.
Đêm quân ngủ còn nghe chày giã thuốc.

– Ba ơi, tối qua con lại sốt!
Muỗi rừng làm rét từng cơn.
– Bắn Nhật ve, tay cháu dứt gân.
– Chân con trẹo vì chiều nay vượt núi.

Mái nhà sàn tiếng cười sôi nổi.
Người nữ quân y móm mém nhai trầu
– Miếng lá này dịt chỗ tay đau.
– Phát thuốc này dưới con muỗi ác.

Anh em tặng bà cá, thịt
Bà biếu lại dân mắt ước mơ cười:
– Bà chỉ thèm cái ốc suối thôi
Bảo cháu dâu kiếm cho miếng ốc!

Bỗng một hôm núi, rừng xao xác
Dòng chí già trên lán không ra.
– Cái đồng chí già ốm chẳng nói qua!
Bà Páo lầm rầm gọi người lên núi.

Trong lán chỉ huy, trận sốt đang dữ dội
Quân cán vây quanh, nước mắt dầm dề.
Đồng chí già đang cố chống cơn mê.
Ôi bất hạnh nếu người trăng trối.

Từ đỉnh núi Hồng về, bàn tay vội vội…
Bà Páo gọi người vần gã bên khe.
Bắc nước đun sôi, nồi lá hái về.
Đưa đồng chí già xông tắm.

Ôi đồng chí già đi nhiều mưa nắng!
Phải làm cho đổ mồ hôi.
Không bệnh kết ông phù thũng, chết người.
Tiếc con người Cách mạng!

Khởi nghĩa về, bà Páo đi ngựa trắng.
Trở lại Khâu Nhi. Lên núi Nà lừa.
(Đồng chí già xông thuốc năm xưa
Giờ làm to đấy)!
Nhưng vẫn nghèo, vẫn gày ốm vậy!
Chỉ có cha ta cơm bữa, ngày ngày.
Đoàn thể cho ta ngựa cưỡi hôm nay.

Nhưng thật khổ đây!
Bác trai trách ta đi mãi!
Bảo ta già, bỏ núi thuốc trong quê.
Nhưng sao đồng chí già kia đi mãi cũng không về?

Bà Páo chào dân làng xuống núi
Ngựa trắng tung bờm, áo chàm phất phới.


Tân Trào, 11-1969

*

Người Nữ Quân Y Chiến Khu – Bàn Tay Nhân Hậu Giữa Núi Rừng Cách Mạng

Trong dòng chảy của lịch sử dân tộc, bên cạnh những người lính cầm súng chiến đấu, còn có những con người âm thầm cống hiến bằng đôi tay nhân hậu và trái tim tràn đầy yêu thương. Bài thơ Người nữ quân y chiến khu của nhà thơ Anh Thơ là một khúc tráng ca về những con người như thế – những người phụ nữ lặng lẽ hy sinh, chăm lo sức khỏe cho chiến sĩ, gắn bó với cách mạng bằng lòng yêu nước chân thành và sự tận tụy không mệt mỏi.

Bóng dáng người mẹ giữa chiến khu

Bài thơ mở ra với hình ảnh bà Páo – một người phụ nữ dân tộc già nua, nhưng vẫn kiên trì bám trụ nơi chiến khu, đồng hành cùng đoàn quân giải phóng:

“Một đôi dậu, một chiếc thuổng con.
Bà Páo đi, giữa đoàn quân Giải phóng
Váy áo chàm bay theo tóc trắng
Từ đỉnh Khâu Nhi, xuống núi Nà Lừa.”

Hình ảnh một bà lão dân tộc, với dáng vẻ mảnh mai nhưng tràn đầy nghị lực, xuất hiện giữa đoàn quân không phải với tư thế của một người đứng ngoài cuộc. Bà là một phần của cách mạng, là người gắn bó máu thịt với bộ đội, như một người mẹ nơi chiến khu. Bàn tay già nua ấy vẫn hái thuốc, giã thuốc, tìm từng chiếc lá để chữa trị cho những người lính trẻ.

Người thầy thuốc của núi rừng

Là một nữ quân y, bà Páo không chỉ chữa bệnh, mà còn là chỗ dựa tinh thần cho các chiến sĩ. Trong căn nhà sàn đơn sơ giữa đại ngàn, bà là người xoa dịu những cơn đau, là người lắng nghe từng lời than thở của những người lính trẻ:

“Ba ơi, tối qua con lại sốt!
Muỗi rừng làm rét từng cơn.

– Bắn Nhật ve, tay cháu dứt gân.

– Chân con trẹo vì chiều nay vượt núi.”

Giữa những ngày tháng gian khổ, bà chăm sóc bộ đội như chính con cháu mình, bằng những bài thuốc dân gian, bằng bàn tay dịu dàng đầy kinh nghiệm. Bà không cần những món quà xa xỉ, không nhận cá thịt từ chiến sĩ, chỉ mong một chút “ốc suối” – một niềm vui giản dị của người phụ nữ gắn bó với rừng sâu.

Cuộc chiến với thần chết

Nhưng đâu chỉ có những cơn sốt rét thông thường, đôi lúc, bà phải đối diện với những giây phút căng thẳng nhất, khi cái chết cận kề một người đồng chí quan trọng:

“Bỗng một hôm núi, rừng xao xác
Dòng chí già trên lán không ra.

– Cái đồng chí già ốm chẳng nói qua!
Bà Páo lầm rầm gọi người lên núi.”

Đó là một trận chiến không tiếng súng, nhưng căng thẳng không kém. Khi vị chỉ huy chiến khu lâm trọng bệnh, cả lán chìm trong lo lắng, nước mắt lăn dài trên má từng người. Bà Páo, bằng sự hiểu biết của mình, lập tức tìm lá thuốc, bắc nước sôi, dùng phương pháp dân gian để cứu chữa.

“Phải làm cho đổ mồ hôi.
Không bệnh kết ông phù thũng, chết người.
Tiếc con người Cách mạng!”

Trong giây phút sinh tử, bà vẫn giữ vững niềm tin, vẫn cố gắng hết sức mình để giữ lại sự sống cho một người đồng chí, một người lãnh đạo của cách mạng. Và rồi, nhờ vào sự tận tâm ấy, người đồng chí già đã qua cơn nguy kịch, để sau này tiếp tục cống hiến cho đất nước.

Sự ra đi và nỗi trăn trở

Khi cách mạng thành công, bà Páo rời chiến khu, trở lại quê hương trên lưng ngựa trắng. Nhưng niềm vui sum vầy chẳng thể trọn vẹn, bởi bà vẫn luôn canh cánh một nỗi niềm:

“Bác trai trách ta đi mãi!
Bảo ta già, bỏ núi thuốc trong quê.
Nhưng sao đồng chí già kia đi mãi cũng không về?”

Người đồng chí từng được bà cứu sống, nay đã giữ chức vụ cao, nhưng vẫn gầy gò, vẫn mang dáng vẻ của những tháng năm gian khó. Còn bà – dù được đoàn thể trao cho ngựa trắng, dù trở về giữa sự chào đón của quê hương, nhưng trong lòng vẫn mang nỗi khắc khoải. Đó là nỗi trăn trở của những người đã gắn bó cả đời với cách mạng, những con người mà cuộc đời đã hòa vào vận mệnh đất nước.

Lời kết

Bài thơ Người nữ quân y chiến khu không chỉ là một bài ca về lòng nhân hậu và sự tận tụy, mà còn là một khúc tráng ca về những người phụ nữ vô danh nhưng vĩ đại trong kháng chiến. Họ không cầm súng ra trận, nhưng lại là những người gìn giữ sự sống cho chiến sĩ, là chỗ dựa tinh thần, là nguồn động viên trong những ngày gian khổ nhất.

Qua hình ảnh bà Páo, nhà thơ Anh Thơ đã khắc họa một cách chân thực và xúc động bóng dáng của những bà mẹ chiến khu – những con người giản dị nhưng phi thường, góp phần làm nên chiến thắng bằng chính sự hy sinh thầm lặng của mình. Và rồi, khi chiến tranh qua đi, dù họ có trở về với cuộc sống bình dị, thì dấu ấn của họ vẫn mãi in sâu trong lịch sử, như những ngọn lửa ấm áp cháy mãi giữa lòng dân tộc.

*

Nhà thơ Anh Thơ – Người vẽ tranh quê bằng thơ

Anh Thơ (1918 – 2005), tên thật là Vương Kiều Ân, là một trong những nữ thi sĩ tiêu biểu của văn học Việt Nam hiện đại. Bà nổi tiếng từ năm 17 tuổi với tập thơ Bức tranh quê, đoạt giải khuyến khích của Tự Lực Văn Đoàn, mở ra một hướng đi riêng trong phong trào Thơ mới: thơ về nông thôn, thiên nhiên Bắc Bộ với những hình ảnh bình dị, đầy chất trữ tình.

Sinh ra trong một gia đình Nho học, cuộc sống kín cổng cao tường đã hun đúc trong bà một tâm hồn nhạy cảm, luôn khát khao tự do. Những câu thơ của Anh Thơ không chỉ vẽ nên bức tranh làng quê thanh bình mà còn phản ánh nỗi niềm sâu lắng của người phụ nữ trước những ràng buộc xã hội.

Sau Cách mạng tháng Tám, bà tham gia Việt Minh, giữ nhiều trọng trách trong Hội Phụ nữ, tiếp tục sáng tác thơ ca ngợi người phụ nữ hậu phương, vẻ đẹp cuộc sống mới và tinh thần đấu tranh anh dũng của dân tộc. Bà là một trong những hội viên đầu tiên của Hội Nhà văn Việt Nam, từng giữ vị trí ủy viên Ban chấp hành Hội.

Với những đóng góp lớn cho văn học, Anh Thơ được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật năm 2007. Những vần thơ của bà vẫn mãi ngân vang, gợi lên trong lòng người đọc tình yêu quê hương tha thiết:

“Quán tranh đứng im lìm trong vắng lặng
Bên chòm xoan hoa tím rụng tơi bời…”
(Chiều xuân)

Viên Ngọc Quý.

Bạn cũng có thể thích..

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *