Ngưu Lang, Chức Nữ
Trên giời Chức Nữ cùng Ngưu Lang,
Một dải sông Ngân lệ mấy hàng.
(Tản Đà)
Sông Ngân nước chảy hững hờ,
Ngưu Lang ngồi khóc bên bờ sông Ngân.
Một năm gặp được mấy lần?
Anh khổ vô ngần, Chức Nữ em ơi!
Đôi ta chẳng đẹp lòng giời,
Một dòng nước bạc ngăn đôi chung tình.
Chẳng cho liền cánh, liền cành,
Đầy em trên ấy, đoạ anh dưới này.
Lạc loài hai đứa thơ ngây,
Một năm sống để một ngày gặp nhau.
Đôi ta có tội gì đâu,
Cớ sao chim chẳng bắc cầu cho qua?
Có chăng tội với giời già,
Chẳng qua là tội hai ta chung tình.
Dây oan thắt chặt lấy mình,
Con sông bất bình chảy mãi về xuôi.
Bao giờ, Chức Nữ em ơi!
Cho giời trông lại, cho giời quay đi?
Xuân xanh để lỡ một thì,
Anh là bướm dại yêu gì được hoa.
Mênh mang một dải Ngân Hà,
Tình sao không phụ mà ra phụ tình!
Con tằm là luỵ ba sinh,
Mà em là luỵ của anh muôn đời.
Em là con gái nhà giời,
Anh là con cái nhà người thường dân.
Yêu em có vạn có ngàn,
Nhưng cha chẳng chứng cho bàn tay không?
Anh chưa tên chiếm bảng rồng,
Lấy đâu xe bóng ngựa hồng vinh quy?
Cưới em bằng tấm tình si,
Đò không chở thí lấy gì sang sông?
Tên em anh để bên lòng,
Bụi hồng vương lấy má hồng, thương anh!
Vì cha chẳng đoái duyên mình,
Anh đành sống để chung tình với em!
Đêm nay là mấy mươi đêm,
Chân cứng đá mềm, Chức Nữ em ơi!
Bờ sông bên ấy gieo thoi,
Sao em chẳng dệt một lời cho anh?
Tơ lòng mấy sợi mong manh,
Biết anh có dệt nên hình gì không?
Một bờ sông, hai bờ sông,
Một lòng anh dám hai lòng ở đâu!
Bao giờ cho hợp duyên nhau,
Anh bắc nghìn cầu, Chức Nữ em ơi!
*
Một dải Ngân Hà, một đời chung tình
Trong dân gian Việt Nam, chuyện Ngưu Lang – Chức Nữ vốn là một truyền thuyết xa xưa từ Trung Hoa, nói về đôi tình nhân bị chia lìa bởi dòng sông Ngân, mỗi năm chỉ được gặp nhau một lần nhờ đàn quạ bắc cầu Ô Thước. Nhưng dưới ngòi bút của Nguyễn Bính, truyền thuyết ấy không còn ở cõi thần tiên siêu thực nữa – nó trở thành lời thơ đầy nước mắt của một người trần thế, đau đáu sống trong kiếp yêu mà không thể đến gần người mình yêu.
Ngay từ những dòng đầu, Nguyễn Bính đã mượn lại hai câu thơ của Tản Đà:
“Trên giời Chức Nữ cùng Ngưu Lang,
Một dải sông Ngân lệ mấy hàng.”
Và rồi, ông đưa chúng ta bước qua ranh giới của huyền thoại, đặt tình yêu ấy vào một thực tại đầy nước mắt:
“Sông Ngân nước chảy hững hờ,
Ngưu Lang ngồi khóc bên bờ sông Ngân.”
Câu thơ giản dị mà đầy ám ảnh. Dòng sông chia đôi không chỉ là dải Ngân Hà trên trời, mà là nỗi bất lực, là định mệnh oan nghiệt giữa hai người yêu nhau mà chẳng thể nắm tay. Ngưu Lang khóc, không chỉ vì nỗi xa cách, mà còn vì sự bất công đến từ một “giời già” vô tình trước trái tim con người.
Nguyễn Bính không viết như một người kể chuyện cổ tích. Ông viết như một người trong cuộc. Nỗi đau ấy là của ông, là của chúng ta – những con người đã từng yêu đến tận cùng mà vẫn phải đứng nhìn người kia khuất bóng. Tình yêu của Ngưu Lang không chỉ bị ngăn cách bởi thiên mệnh, mà còn bởi nghèo khó, bởi lễ giáo, bởi bất công của một thế giới không cho phép “con nhà người thường” mơ đến “con gái nhà giời”:
“Em là con gái nhà giời,
Anh là con cái nhà người thường dân.
Yêu em có vạn có ngàn,
Nhưng cha chẳng chứng cho bàn tay không?”
Câu hỏi ấy, ai trong chúng ta chưa từng tự hỏi? Khi yêu không thể đến được với nhau không phải vì hết yêu, mà vì những điều nằm ngoài tình yêu – thì nỗi đau ấy sâu gấp vạn lần.
Nguyễn Bính viết về Chức Nữ như viết cho một người con gái ông từng yêu. Ông không trách nàng – ông chỉ trách cuộc đời. Trách những lề luật nghiệt ngã, trách sông Ngân chia cách, trách chim trời không chịu bắc cầu, trách tơ trời mong manh không đủ dệt nên hình bóng nhau.
“Tơ lòng mấy sợi mong manh,
Biết anh có dệt nên hình gì không?”
Trong lời thơ, tình yêu không phai – nhưng hy vọng thì mỗi lúc một hao gầy. Ngưu Lang của Nguyễn Bính không phải là người mộng mơ. Anh biết mình nghèo, biết mình không có “xe bóng ngựa hồng”, nhưng vẫn giữ một lòng chung thủy. Dù không được cưới em, thì anh vẫn sống để giữ lấy em trong tim:
“Vì cha chẳng đoái duyên mình,
Anh đành sống để chung tình với em!”
Có thể với người khác, một năm gặp một lần là một phép màu. Nhưng với Nguyễn Bính, yêu là phải sống cùng, dệt từng ngày bằng tơ lòng – chứ không thể sống mòn để chờ một khoảnh khắc.
Và rồi, kết bài thơ là một lời nguyện thầm lặng mà đau đáu:
“Bao giờ cho hợp duyên nhau,
Anh bắc nghìn cầu, Chức Nữ em ơi!”
Không còn mong chờ trời thương. Không còn trông đợi chim trời, mây nước. Chàng trai ấy sẽ tự mình bắc cầu – không phải một, mà là “nghìn cầu” – để được gần người mình yêu. Đó là tuyên ngôn của một tình yêu chân thành, của một trái tim dám vượt qua mọi rào cản, dù biết rằng kết cục có thể vẫn là lỡ làng.
Nguyễn Bính đã lấy truyền thuyết để kể một câu chuyện thật. Ông không chỉ nói về Ngưu Lang, Chức Nữ – mà nói về tất cả những cuộc tình lỡ trong đời thường: yêu nhau nhưng chẳng đến được với nhau. Và ông để lại trong lòng người đọc một niềm thương xót khôn nguôi – không phải vì họ xa cách, mà vì dẫu xa, họ vẫn yêu nhau đến tận cùng, đến mức không thể ngừng hy vọng.
Có những dòng sông không có bờ bên kia,
Nhưng người ta vẫn cứ thả thuyền trôi tới.
Có những cuộc tình không thể thành đôi,
Nhưng người ta vẫn sống như chưa từng chia biệt.
*
Nguyễn Bính (1918-1966) là một trong những nhà thơ nổi bật của phong trào Thơ mới Việt Nam. Ông được biết đến với phong cách mộc mạc, giản dị, đậm chất dân gian và mang hồn quê sâu sắc. Thơ Nguyễn Bính thường gắn với hình ảnh thôn quê, con người bình dị và những chuyện tình duyên đầy cảm xúc, thể hiện một tâm hồn tha thiết với truyền thống. Một số bài thơ tiêu biểu như Lỡ bước sang ngang, Tương tư, Chân quê… đã để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng bạn đọc nhiều thế hệ.
Viên Ngọc Quý