Cảm nhận bài thơ: Nguyễn Du – Huy Thông

Nguyễn Du

Giữa đám núi cao trên Hồng Lĩnh
Lô xô và tha thướt bóng chiều
Lụp xụp trong thung lũng tiêu điều
Lạc loài một túp lều thanh tịnh

Nguyễn Du trước cửa đang ngâm vịnh
Bỗng hồn thơ bay bổng như diều
Cụ vừa đọc hết chuyện cô Kiều
Một gái thanh lâu đời Gia Tĩnh

Trên án thư dưới ngọn đèn dầu
Nguyễn Du ngồi mài thoi mực Tàu
Chữ thoăn thoắt phủ đầy giấy trắng

Rồi khi trời đông điểm ánh vàng
Tóc râu bạc xoá nhưng trán phẳng
Cụ thấy lòng khoan khoái nhẹ nhàng.

*

Nguyễn Du – Người Lữ Khách Của Thời Gian

Giữa bạt ngàn non nước Việt Nam, có những con người mà tên tuổi của họ đã trở thành tượng đài bất hủ, không chỉ bởi tài năng kiệt xuất mà còn vì tâm hồn và nhân cách lớn lao. Nguyễn Du – đại thi hào dân tộc, cha đẻ của Truyện Kiều, là một trong những con người như thế. Nhà thơ Huy Thông, với bài thơ Nguyễn Du, đã khắc họa chân dung người thi nhân tài hoa ấy trong khoảnh khắc sáng tạo, nơi tâm hồn ông hòa vào không gian, vào thời gian, và vào chính những nhân vật bất hủ mà ông đã dựng lên bằng chữ nghĩa.

Người thi sĩ cô đơn giữa trời đất

Mở đầu bài thơ, Huy Thông đã đặt Nguyễn Du vào một bối cảnh đầy cô tịch:

“Giữa đám núi cao trên Hồng Lĩnh
Lô xô và tha thướt bóng chiều
Lụp xụp trong thung lũng tiêu điều
Lạc loài một túp lều thanh tịnh.”

Hình ảnh Hồng Lĩnh – vùng núi gắn liền với quê hương Nguyễn Du – hiện lên hùng vĩ nhưng cũng nhuốm màu hoang vắng. Trong bức tranh ấy, một túp lều nhỏ bé, đơn sơ hiện ra, lặng lẽ nép mình giữa đất trời rộng lớn. Cụm từ “lạc loài” gợi lên cảm giác về một con người cô độc, như lữ khách giữa nhân gian, như kẻ lắng nghe tiếng gió ngàn vọng về mà trong lòng nặng trĩu nỗi niềm thế sự.

Nguyễn Du không chỉ đơn độc về không gian, mà còn đơn độc trong tâm hồn. Ông sống giữa thời loạn lạc, khi nhà Lê suy tàn, xã hội đảo điên, con người bị cuốn theo dòng xoáy của số phận. Chính hiện thực ấy đã tạo nên một Đoạn Trường Tân Thanh đầy xót xa, khiến Truyện Kiều trở thành tiếng khóc bi thương cho những kiếp người bạc mệnh.

Khoảnh khắc thi hứng dâng trào

Giữa không gian tĩnh lặng ấy, Nguyễn Du đang ngâm vịnh, và rồi:

“Bỗng hồn thơ bay bổng như diều
Cụ vừa đọc hết chuyện cô Kiều
Một gái thanh lâu đời Gia Tĩnh.”

Chỉ trong một khoảnh khắc, cả vũ trụ thơ ca như mở ra trước mắt Nguyễn Du. Hồn thơ ông như diều no gió, bay cao, vượt thoát khỏi thực tại để hòa vào thế giới của Truyện Kiều. Chỉ một câu “một gái thanh lâu đời Gia Tĩnh” cũng đủ để gợi lên cả cuộc đời lưu lạc của nàng Kiều, một số phận bị xô đẩy giữa dòng đời nghiệt ngã.

Có thể thấy, giây phút ấy không chỉ là khoảnh khắc sáng tạo, mà còn là khoảnh khắc mà Nguyễn Du cảm nhận sâu sắc nhất về nhân vật của mình, để rồi hòa chung nỗi đau, cùng xót thương cho một kiếp người tài hoa mà bạc mệnh.

Người nghệ sĩ miệt mài bên trang giấy

Sau giây phút thăng hoa ấy, Nguyễn Du lại trở về với thực tại:

“Trên án thư dưới ngọn đèn dầu
Nguyễn Du ngồi mài thoi mực Tàu
Chữ thoăn thoắt phủ đầy giấy trắng.”

Hình ảnh người nghệ sĩ lặng lẽ làm việc dưới ngọn đèn dầu gợi lên một sự chăm chỉ, miệt mài. Nguyễn Du không chỉ là một thi nhân, mà còn là một người lao động nghệ thuật thực thụ. Ông đã dành trọn đời mình để trau chuốt từng con chữ, để dồn nén cả tâm hồn và tài năng vào những trang giấy. Hình ảnh “mài thoi mực Tàu”, “chữ thoăn thoắt phủ đầy giấy trắng” không chỉ là sự miêu tả công việc sáng tác, mà còn ẩn chứa sự kính trọng đối với một con người suốt đời tận tụy với văn chương.

Tâm hồn thanh thản giữa nỗi niềm nhân thế

Và cuối cùng, khi trời đông vừa chớm sáng:

“Rồi khi trời đông điểm ánh vàng
Tóc râu bạc xoá nhưng trán phẳng
Cụ thấy lòng khoan khoái nhẹ nhàng.”

Khoảnh khắc bình minh xuất hiện cũng là lúc Nguyễn Du khép lại một đêm dài miệt mài với trang giấy. Dẫu tóc râu đã bạc, nhưng tâm hồn ông vẫn an nhiên, nhẹ nhàng. Phải chăng đó là niềm thanh thản của một con người đã trút hết nỗi lòng vào thơ, để tâm hồn được giải thoát khỏi những trăn trở thế sự?

Câu thơ cuối không chỉ nói về Nguyễn Du, mà còn mang một ý nghĩa sâu xa hơn: nghệ thuật là nơi người nghệ sĩ gửi gắm tất cả nỗi lòng, và cũng là nơi giúp họ tìm được sự bình yên giữa bao bão tố cuộc đời.

Thông điệp của bài thơ

Bài thơ Nguyễn Du của Huy Thông không chỉ là một bức chân dung về đại thi hào dân tộc, mà còn là một bài ca về sự tận tụy với nghệ thuật, về nỗi cô đơn của người sáng tạo, và về niềm thanh thản khi họ đã để lại dấu ấn của mình trong dòng chảy văn chương.

  • Người nghệ sĩ chân chính luôn cô độc. Họ lạc lõng giữa nhân gian, nhưng chính sự cô độc ấy lại là mảnh đất màu mỡ để nuôi dưỡng những tác phẩm bất hủ.
  • Sáng tạo là hành trình của sự dấn thân. Nguyễn Du đã dành cả cuộc đời để hoàn thiện Truyện Kiều, không chỉ bằng tài năng, mà bằng chính nỗi đau và trăn trở của mình.
  • Văn chương không chỉ là nghệ thuật, mà còn là lẽ sống. Với Nguyễn Du, Truyện Kiều không chỉ là một tác phẩm, mà còn là cách ông đối diện với cuộc đời, với thời đại, và với chính bản thân mình.

Bài thơ của Huy Thông, dù chỉ vỏn vẹn 14 câu, nhưng đã gói trọn tinh thần Nguyễn Du – một con người trầm lặng nhưng vĩ đại, một tâm hồn cô đơn nhưng bất tử cùng năm tháng.

*

Phạm Huy Thông (1916–1988) – Nhà thơ, nhà giáo, nhà khoa học xã hội Việt Nam

Phạm Huy Thông sinh ngày 22 tháng 11 năm 1916 tại Hà Nội, trong một gia đình kinh doanh lớn, giàu tinh thần dân tộc. Ông là hậu duệ của danh tướng Phạm Ngũ Lão, quê gốc ở Hưng Yên.

Ngay từ nhỏ, Phạm Huy Thông đã bộc lộ tài năng xuất sắc. Ông nổi tiếng trong phong trào Thơ Mới với bài Tiếng địch sông Ô khi mới 16 tuổi. Năm 21 tuổi, ông tốt nghiệp cử nhân Luật tại Viện Đại học Đông Dương, sau đó sang Pháp tiếp tục học tập và trở thành Tiến sĩ Luật, Thạc sĩ Sử – Địa khi mới 26 tuổi. Ông từng là Giáo sư, Ủy viên Hội đồng Giáo dục tối cao của Pháp và có thời gian giúp việc Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Hội nghị Fontainebleau năm 1946.

Sau khi trở về Việt Nam, ông giữ nhiều trọng trách như Hiệu trưởng Trường Đại học Sư phạm Hà Nội (1956–1966), Viện trưởng Viện Khảo cổ học (1967–1988), Đại biểu Quốc hội khóa II, III. Ông có nhiều đóng góp trong nghiên cứu lịch sử, khảo cổ học với các công trình tiêu biểu như Thời đại các Vua Hùng dựng nước, Khảo cổ học 10 thế kỷ sau Công nguyên, Khảo cổ học với văn minh thời Trần.

Bên cạnh sự nghiệp khoa học, ông còn là nhà thơ, có thơ được nhắc đến trong Thi nhân Việt Nam của Hoài Thanh – Hoài Chân. Năm 2000, ông được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh. Tên ông được đặt cho nhiều con đường tại Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh.

Ông qua đời ngày 21 tháng 6 năm 1988 tại Hà Nội.

Viên Ngọc Quý.

Bạn cũng có thể thích..

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *