Cảm nhận bài thơ: Nhạc xuân – Nguyễn Bính

Nhạc xuân

 

Hôm nay là xuân, mai còn xuân;
Xuân đã sang đò nhớ cố nhân.
Người ở bên kia sông cách trở,
Có về Chiêm Quốc như Huyền Trân?

Hôm nay là xuân, mai còn xuân;
Phơi phới mưa sa, nhớ cố nhân.
Phận gái ví theo lề ép uổng,
Đã về Chiêm Quốc như Huyền Trân?

Hôm nay là xuân, mai còn xuân,
Lăng lắc đường xa, nhớ cố nhân.
Nay đã vội quên tình nghĩa cũ,
Mà về Chiêm Quốc như Huyền Trân?

Hôm nay là xuân, mai còn xuân,
Một cánh đào rơi, nhớ cố nhân.
Cung nữ như hoa vườn Thượng uyển.
Ai về Chiêm Quốc với Huyền Trân?

Hôm nay là xuân, mai còn xuân,
Pháo đỏ đầy thềm, nhớ cố nhân.
Cung nữ môi tô rằng rặc điện,
Ai về Chiêm Quốc hộ Huyền Trân?

Hôm nay là xuân, mai còn xuân,
Rượu uống say rồi, nhớ cố nhân.
Đã có yêu nhau là đến thế,
Đừng về Chiêm Quốc nhé, Huyền Trân?

Đừng về Chiêm Quốc nhé, Huyền Trân.
Ta viết thơ này gửi cố nhân.
Năm mới tháng giêng mồng một tết,
Còn nguyên vẹn cả một mùa xuân.

Huyền Trân, Huyền Trân, Huyền Trân ơi!


Mùa xuân, mùa xuân, mùa xuân rồi.
Giờ đây chín vạn bông trời nở,
Riêng có tình ta khép lại thôi!


Khai bút năm Canh Thìn (1940)

*

Mùa xuân khép lại trong lời gọi Huyền Trân – Nỗi đau và tình yêu muộn màng trong thơ Nguyễn Bính

Có những bài thơ mang theo sắc xuân, nhưng không để mở lòng hân hoan, mà để đóng lại một cánh cửa yêu thương đã lỡ. “Nhạc xuân” của Nguyễn Bính là một bản nhạc buồn như thế – một khúc tình ca nghẹn ngào tiễn biệt, gửi tới một người con gái đã bước sang bên kia bờ sông định mệnh, nơi tình riêng hóa thành nghi lễ, nơi trái tim bị giam trong khuôn phép của lễ giáo và định mệnh.

Từ câu đầu tiên, bài thơ đã nhuốm đầy nỗi tiếc nuối khôn nguôi:

Hôm nay là xuân, mai còn xuân;
Xuân đã sang đò nhớ cố nhân.

Xuân vừa chạm ngõ, lòng người đã đượm buồn. Không phải mùa xuân nào cũng gắn liền với hy vọng; có khi, mùa xuân lại là khung cảnh để tình yêu phơi bày sự chia lìa, để nỗi nhớ bám lấy từng nhánh gió, từng cánh đào rơi. Nguyễn Bính lặp lại điệp khúc “Hôm nay là xuân, mai còn xuân”, như một niệm chú buồn bã, nhắc cho mình rằng dẫu xuân còn đó, người thì đã không còn.

Điều đặc biệt trong bài thơ là hình ảnh Huyền Trân công chúa – người xưa đã gả về Chiêm Quốc vì quốc sự. Nhắc đến Huyền Trân là nhắc đến bi kịch của một trái tim hy sinh tình riêng cho đại nghĩa, là biểu tượng của người con gái mang thân mình đi làm dâu xứ lạ, trong khi lòng còn rướm máu vì một mối duyên dang dở. Và giờ đây, người con gái trong bài thơ – có lẽ cũng như Huyền Trân – đang rời bỏ tình yêu để bước vào cánh cửa lễ nghi.

Nguyễn Bính nhiều lần gọi:

Ai về Chiêm Quốc như Huyền Trân?
Ai về Chiêm Quốc hộ Huyền Trân?
Đừng về Chiêm Quốc nhé, Huyền Trân?

Đó là những câu thơ vừa là trách, vừa là van, vừa là tuyệt vọng. Trách vì người đã nỡ quên “tình nghĩa cũ”, van vì tình yêu còn quá đậm sâu, và tuyệt vọng vì biết lời gọi ấy không còn tác dụng – người đã đi rồi. Từ “Chiêm Quốc” ở đây không đơn thuần là một vùng đất; đó là ẩn dụ cho nơi chốn không dành cho tình yêu, nơi mà con tim không còn tự do để thổn thức vì một ai khác.

Khổ thơ cuối là lời gục ngã của một trái tim không cam lòng:

Giờ đây chín vạn bông trời nở,
Riêng có tình ta khép lại thôi!

Xuân ngập trời, mà trái tim người thơ như một cánh cửa đóng chặt, âm thầm chịu tang cho một mối tình đã chết. Giữa mùa xuân, tình yêu ấy không nở, mà tự mình gấp lại, như tấm áo cũ cất vào hòm ký ức. Nỗi đau ấy không ồn ào, không tuyệt vọng, mà sâu sắc và lặng lẽ, như tiếng chuông buổi chiều ngân dài trong hư vô.

“Nhạc xuân” không phải là một bài thơ vui mùa tết, mà là một lời tiễn biệt đầy đau thương trong sắc xuân đang rực rỡ. Nguyễn Bính không ngợi ca những mâm cỗ, pháo hồng, hay hoa đào, mà khắc vào lòng người đọc sự trống vắng của một mùa xuân không tình yêu.

Qua hình ảnh Huyền Trân, ông truyền tải một thông điệp buốt lòng:
Không phải mọi hy sinh đều được thấu hiểu. Không phải tình yêu nào cũng thắng nổi phận mệnh. Và có những mùa xuân, đẹp rực rỡ ngoài trời, nhưng tàn úa hoàn toàn trong lòng một người.

Một mùa xuân nữa lại đến. Nhưng đối với người thi sĩ ấy, mùa xuân đã từng hiện hữu như một khúc tiễn đưa – nơi mà tiếng gọi Huyền Trân vang lên mãi như một hồi chuông lỡ hẹn yêu thương.

*

Nguyễn Bính (1918-1966) là một trong những nhà thơ nổi bật của phong trào Thơ mới Việt Nam. Ông được biết đến với phong cách mộc mạc, giản dị, đậm chất dân gian và mang hồn quê sâu sắc. Thơ Nguyễn Bính thường gắn với hình ảnh thôn quê, con người bình dị và những chuyện tình duyên đầy cảm xúc, thể hiện một tâm hồn tha thiết với truyền thống. Một số bài thơ tiêu biểu như Lỡ bước sang ngang, Tương tư, Chân quê… đã để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng bạn đọc nhiều thế hệ.

Viên Ngọc Quý

Bạn có thể chia sẻ bài viết qua:

Bạn cũng có thể thích..

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *