Nhớ kỹ tên con nhé!
Hồng Cầu! Con gái của cha ơi!
Con sống giữa Sài Gòn,
Mười bốn mười lăm, tuổi còn kẹp tóc.
Chúng nó đóng cửa trường,
Cha chẳng muốn cho con thất học.
Chúng nó chiếu phim cởi truồng,
Cha chẳng muốn đời con ô nhục.
Cha chẳng muốn chồng con sau này,
Mật thám, cao bồi, dao găm, súng lục.
Cơm con ăn dù độn sắn độn khoai,
Cha chẳng muốn chúng trộn vào thuốc độc.
Mẹ con bờ Côn Đảo mù khơi,
Cha ngoài này – con biết chừ, con ơi! –
Cha mẹ vẫn từng chiều, mắt nhìn con thắm thiết,
Cha mẹ vẫn từng giờ, sống vì con mải miết.
Dù bao giờ, dù bất cứ ở đâu,
Nhớ kỹ tên con nhé, Hồng Cầu!
Tên cha mẹ đặt cho, thuở con còn trứng nước,
Đã gởi gấm biết bao điều mơ ước,
(Khi miền Nam kháng chiến buổi ban đầu…)
Cha bỗng giật mình – ờ nhỉ! biết đâu!
Chúng sẽ bắt con
vô cớ
giữa Sài Gòn.
Quay điện, quật roi, khắp mình con bầm tím,
Xô con xuống nhà lao, đẩy con lên máy chém,
Chỉ vì con tên gọi Hồng Cầu!
Nhưng dù sao, dù bất cứ ở đâu,
Nhớ kỹ tên con nhé!
Như nhớ cha nhớ mẹ,
Như nhớ mối thù này.
Bắt bớ, khảo tra, chém giết, tù đầy,
Thất học, đói ăn, gia đình xé lẻ…
Nhớ kỹ thù này con nhé!
Sấn lên từng bước vững vàng.
Đừng phụ lòng tin cha mẹ,
Hãy xứng danh người con gái miền Nam
Hãy thét lên đầu chúng nó,
Thét to hai tiếng: Hồng Cầu!
Như trái đất này rực đỏ,
Dù bao giờ, dù bất cứ ở đâu!
Tháng 11-1959
*
“Hồng Cầu!” – Tiếng gọi đỏ lửa của tình cha, của niềm tin và kháng cự
Có những bài thơ là những đoá hoa. Có những bài thơ là giọt lệ. Và có những bài thơ là tiếng gọi – tiếng gọi bật lên từ tận cùng trái tim một người cha, xuyên qua muôn dặm cách trở, xuyên qua bóng tối và đau thương, để đến với đứa con của mình bằng tất cả yêu thương, lo lắng và niềm tin cháy bỏng. “Nhớ kỹ tên con nhé!” của Nguyễn Bính là một tiếng gọi như thế – một tiếng gọi thấm đẫm máu, nước mắt và lửa đỏ của những năm tháng đất nước bị chia cắt, nhân dân sống dưới ách bạo tàn.
Ngay từ dòng đầu tiên, bài thơ đã hiện lên như một lời gọi tha thiết:
Hồng Cầu! Con gái của cha ơi!
Tiếng gọi không chỉ là xưng hô – nó là nhịp tim của một người cha đang sống ở miền Bắc, đau đáu hướng về con gái nhỏ giữa lòng Sài Gòn trong bóng đêm thực dân – nơi con đang lớn lên trong cảnh bị kìm kẹp, đe dọa và hủy hoại. Cái tên “Hồng Cầu” không chỉ là một danh xưng, mà còn là biểu tượng. Đó là hình ảnh của máu – máu người, máu dân tộc, máu hy sinh và kháng chiến. Đó cũng là hình ảnh của sự sống – dòng máu chảy không ngừng, đỏ thắm, cháy bền.
Mười bốn mười lăm, tuổi còn kẹp tóc.
Chúng nó đóng cửa trường,
Cha chẳng muốn cho con thất học.
Từng dòng thơ thổn thức như lời của một người cha ôm con vào lòng mà không thể bảo vệ con khỏi những vết thương của thời đại. Ông không muốn con gái thơ ngây phải thất học, phải sống trong môi trường đầy ô nhục – nơi người ta chiếu những “phim cởi truồng”, nơi đạo đức bị đánh cắp, nơi người ta hủy hoại tuổi thơ bằng chính những thứ đồi bại nhất.
Cha chẳng muốn chồng con sau này,
Mật thám, cao bồi, dao găm, súng lục.
Câu thơ là tiếng kêu giằng xé: người cha không chỉ sợ cho hiện tại của con, mà còn sợ cho tương lai của con – một tương lai có thể bị nhuốm đen nếu xã hội tiếp tục bị điều khiển bởi bạo lực và phi nhân tính. Ông không chỉ nghĩ đến việc con ăn gì, học gì – ông nghĩ cả đến nhân cách, phẩm giá và hạnh phúc làm người của con.
Cha ngoài này – con biết chừ, con ơi! –
Cha mẹ vẫn từng chiều, mắt nhìn con thắm thiết…
Giữa bao xa cách, hình ảnh của đứa con vẫn là sợi dây sống nối liền trái tim người cha và người mẹ. Dù Côn Đảo mịt mùng sương khói, dù miền Bắc xa xôi mịt mù, hai con người ấy vẫn sống vì con, vẫn gửi tình yêu, hy vọng và dũng khí vào cái tên của con – Hồng Cầu.
Thế nhưng, tình yêu ấy lại mang theo một hiểm hoạ:
Chúng sẽ bắt con
vô cớ
giữa Sài Gòn…
Chỉ vì con tên gọi Hồng Cầu!
Một cái tên – mang màu máu của nhân dân – cũng có thể trở thành cái cớ để người ta tra tấn, bức hại. Cái vô lý của chế độ, cái phi nhân của quyền lực, đã khiến cả tên gọi trở thành án tử. Nhưng giữa nỗi lo sợ tột cùng ấy, người cha không dạy con cách trốn tránh, mà dạy con cách nhớ – nhớ tên, nhớ gốc, nhớ tình và nhớ thù:
Nhớ kỹ tên con nhé, Hồng Cầu!
Như nhớ cha nhớ mẹ,
Như nhớ mối thù này.
“Nhớ tên mình” – là nhớ mình là ai, đến từ đâu, đang sống để làm gì. Đó là cách người cha giữ cho con mình không lạc mất bản thân trong một thế giới bị bóp méo, để mỗi bước con đi là một bước tỉnh thức.
Đừng phụ lòng tin cha mẹ,
Hãy xứng danh người con gái miền Nam.
Câu thơ là lời dặn, là di chúc, là lời truyền máu. Không có sự ủy mị, không có nước mắt – mà chỉ có sự kiêu hãnh, lòng tin và ý chí. Để rồi lời thơ kết lại như một tiếng sét lửa rực đỏ giữa bóng tối:
Hãy thét lên đầu chúng nó,
Thét to hai tiếng: Hồng Cầu!
Như trái đất này rực đỏ,
Dù bao giờ, dù bất cứ ở đâu!
Tên của con không còn là tên riêng – mà là biểu tượng của lý tưởng, là tiếng thét thức tỉnh, là lửa bừng cháy từ máu người xuống từng bước chân chống áp bức. Nguyễn Bính đã kết bài thơ bằng một lời hiệu triệu – không chỉ cho con gái ông – mà cho cả thế hệ đang sống trong đêm đen bị áp bức.
“Nhớ kỹ tên con nhé!” là một bài thơ lớn. Lớn bởi nó chứa trong lòng mình không chỉ tình cha con, không chỉ đau thương lịch sử, mà còn là ánh sáng của niềm tin bất diệt. Trong hoàn cảnh mà sự sống mong manh, lời cha vẫn không phải là tiếng than khóc – mà là tiếng gọi. Gọi con đứng dậy. Gọi một thế hệ giữ lấy nhân phẩm. Gọi đất nước hướng đến ngày mai.
Và hôm nay, đọc lại bài thơ ấy, ta vẫn nghe trong mình một tiếng gọi âm vang – một tiếng gọi từ máu, từ lửa, từ tình yêu:
“Hồng Cầu! Hãy sống đúng với tên mình, dù bao giờ, dù bất cứ ở đâu!”
*
Nguyễn Bính (1918-1966) là một trong những nhà thơ nổi bật của phong trào Thơ mới Việt Nam. Ông được biết đến với phong cách mộc mạc, giản dị, đậm chất dân gian và mang hồn quê sâu sắc. Thơ Nguyễn Bính thường gắn với hình ảnh thôn quê, con người bình dị và những chuyện tình duyên đầy cảm xúc, thể hiện một tâm hồn tha thiết với truyền thống. Một số bài thơ tiêu biểu như Lỡ bước sang ngang, Tương tư, Chân quê… đã để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng bạn đọc nhiều thế hệ.
Viên Ngọc Quý