Cảm nhận bài thơ: Nhớ mùa tháng tám  – Xuân Diệu

Nhớ mùa tháng tám

Cờ Đỏ Sao Vàng… Tháng Tám Bốn Mươi Nhăm…
Nhà Hát Lớn… Mùa Thu Năm Cách Mạng…
Hà Nội Thủ Đô… Việt Minh Mặt Trận…
Tự Do Độc Lập… Dân Chủ Cộng Hoà…
– Những tiếng thần reo rắt mãi, mãi lòng ta!
Nhớ hỡi nhớ, khóc oà vui biết mấy!
“Cái thuở ban đầu Dân quốc ấy,
“Nghìn năm chưa dể đã ai quên…”
Cụ Hồ về, lần thứ nhất giao duyên
Với nước Việt, mà sao tình khắng khít!

Thu ơi mùa thu ơi! ta sống hay là chết?
Cả hồn ta thương nhớ quá đi thôi!
Việt muôn năm, nước Việt lại ra đời.
Ta tôi mọi, ta thành người trở lại.
Hai năm qua, nay lại mùa thu tới.
Mỗi lần thu tới, lại mới mùa thu.
Thu từ đây không thu thảm, thu sầu,
Mà thu sướng, nhuộm mầu xuân mát mát.

Lá biếc xanh xanh, trời mở ngát ngát,
Da tươi thịt thắm nở lại cùng sương.
Áng mây bay như múa cuộc nghê thường,
Nắng hạ giọng nói những lời dịu sáng:
Một ít thịt xương ta – đã theo cùng Cách Mạng!
Mùa Thu Tháng Tám, Năm Bốn Mươi Nhăm!
Khởi nghĩa đi lên, dân chúng rầm rầm,
Máu đường phố gầm gầm, nghe nóng nóng.

Và từ ấy trên thời gian to rộng,
Thu Việt Nam có nghĩa một mùa xuân.
Trăm năm sau, nghe Tháng Tám gần gần,
Nghìn dân lại nhớ tình dân mới bén,
Nhớ tự do đầu, đỏ vàng ước hẹn,
Sao rất thu vàng trong sáng như gương,
Đỏ rất xuân, thơm rực máu bông hường,
Ngày khởi nghĩa để Tháp Rùa ngây ngất!
Nhớ tất cả Năm Cộng Hoà Thứ Nhất,
Như lá vàng cũng có nghĩa là vui.
Như mưa ngâu dường có vị ngọt bùi,
Như lụt lội chỉ tại lòng tràn ngập.
Hà Nội! Thủ Đô! Cộng Hoà! Độc Lập!
Nhớ thương ôi ngày mới tuổi hoa lay
Chính quyền về đầy rẫy những bàn tay,
Khiến chân đảo, khiến người say; nhớ lắm!
Tất cả nhớ quây quần Tháng Tám
Như bướm điên mê khướt một đài hoa.
Lòng tiết trinh vui trong tiệc sáng loà,
Tình nguyên thuỷ vẫn hãy còn run rẩy…

“Cải thuở ban đầu Dân quốc ấy.
“Nghìn năm chưa dễ mấy ai quên!”.


Tháng Tám 1947

*

Nhớ Mùa Tháng Tám – Khi Đất Nước Hồi Sinh

Có những khoảnh khắc trong lịch sử dân tộc không bao giờ phai nhạt, những mùa thu không chỉ mang sắc vàng của lá mà còn rực rỡ màu cờ và ánh sáng của tự do. Nhớ mùa tháng Tám của Xuân Diệu là một bài thơ như thế – một khúc ca bồi hồi, vang vọng mãi trong lòng những người con đất Việt khi nhớ về mùa thu lịch sử năm 1945.

Mở đầu bài thơ là những tiếng gọi đầy trang trọng và thiêng liêng: “Cờ Đỏ Sao Vàng… Tháng Tám Bốn Mươi Nhăm…”, “Nhà Hát Lớn… Mùa Thu Năm Cách Mạng…”. Những từ ngữ ấy không chỉ là sự liệt kê đơn thuần mà còn là tiếng vang của lịch sử, là nhịp trống hùng tráng của một thời kỳ mới. Những hình ảnh ấy đã khắc sâu vào tâm trí của bao thế hệ, trở thành niềm tự hào không thể nào quên.

Xuân Diệu đã dùng cả trái tim để hồi tưởng lại khoảnh khắc dân tộc thoát khỏi kiếp nô lệ: “Việt muôn năm, nước Việt lại ra đời. / Ta tôi mọi, ta thành người trở lại.” Bao nhiêu năm sống dưới xiềng xích, giờ đây người dân Việt Nam mới thực sự được đứng thẳng, được làm chủ vận mệnh của mình. Sự đổi thay ấy lớn lao đến mức tác giả phải tự hỏi: “Thu ơi mùa thu ơi! ta sống hay là chết?”, bởi niềm hạnh phúc quá lớn khiến con người tưởng như đang mơ.

Mùa thu trong thơ Xuân Diệu từ nay không còn là mùa của chia ly và buồn bã như trong văn chương xưa, mà là mùa của sự sống, mùa của hy vọng, của niềm vui. “Thu từ đây không thu thảm, thu sầu, / Mà thu sướng, nhuộm màu xuân mát mát.” Thu tháng Tám không còn là nỗi buồn man mác của một cá nhân, mà là niềm vui của cả dân tộc, là sự đổi mới trong tâm thức con người.

Bài thơ không chỉ là lời ca ngợi một sự kiện trọng đại, mà còn là lời nhắc nhở về tình yêu nước, về lòng biết ơn với những thế hệ đã hy sinh. Từ “một ít thịt xương ta” đã hòa vào cuộc cách mạng, từ máu của những người đã ngã xuống, từ những tiếng thét gầm trên đường phố, đất nước đã đứng dậy, đã hồi sinh.

Và rồi, Xuân Diệu khẳng định rằng, mùa thu ấy không chỉ thuộc về năm 1945, mà sẽ sống mãi trong lòng người Việt. “Trăm năm sau, nghe Tháng Tám gần gần, / Nghìn dân lại nhớ tình dân mới bén.” Đó là mùa thu của lịch sử, của tương lai, của những con người biết trân trọng độc lập và không bao giờ quên đi quá khứ.

Tác giả khép lại bài thơ bằng một lời khẳng định đầy tha thiết:
“Cái thuở ban đầu Dân quốc ấy,
Nghìn năm chưa dễ mấy ai quên!”

Lời thơ không chỉ vang lên như một tiếng gọi của ký ức mà còn là một lời hứa. Một lời hứa rằng, dù bao nhiêu năm trôi qua, dù thế hệ này có qua đi, thế hệ khác có lớn lên, thì mùa thu ấy vẫn mãi mãi là biểu tượng của niềm tin, của lòng tự hào và của một đất nước kiên cường, bất khuất.

*

Xuân Diệu – “Ông hoàng thơ tình” của văn học Việt Nam

Xuân Diệu (1916–1985), tên khai sinh là Ngô Xuân Diệu, là một trong những nhà thơ xuất sắc nhất của nền văn học hiện đại Việt Nam. Với phong cách sáng tác độc đáo, giàu cảm xúc và khát vọng yêu đời mãnh liệt, ông đã để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng bao thế hệ độc giả.

Sinh ra tại Hà Tĩnh nhưng lớn lên ở Quy Nhơn, Bình Định, Xuân Diệu sớm bộc lộ niềm đam mê văn chương. Ông là gương mặt tiêu biểu của phong trào Thơ Mới, mang đến một luồng sinh khí mới cho thi ca Việt Nam. Những tác phẩm như Thơ thơ (1938) hay Gửi hương cho gió (1945) thể hiện rõ nét giọng điệu sôi nổi, táo bạo, chan chứa tình yêu và khát khao tận hưởng vẻ đẹp cuộc sống.

Sau năm 1945, Xuân Diệu chuyển hướng sáng tác, hòa mình vào dòng chảy cách mạng, ca ngợi quê hương, đất nước và con người lao động. Dù ở giai đoạn nào, thơ ông vẫn giữ nguyên vẹn sự say mê và rung động sâu sắc. Những tác phẩm như Riêng chung (1960) hay Hai đợt sóng (1967) tiếp tục khẳng định vị trí của ông trên thi đàn.

Không chỉ là nhà thơ, Xuân Diệu còn là nhà văn, nhà phê bình có ảnh hưởng lớn. Năm 1996, ông được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật, ghi nhận những đóng góp to lớn của mình.

Xuân Diệu vẫn mãi là biểu tượng của thơ tình Việt Nam, là tiếng nói tha thiết của một tâm hồn luôn khát khao yêu và sống trọn vẹn từng khoảnh khắc:

“Hãy tận hưởng ngày giờ đang thở,
Và yêu đời, hãy sống mạnh hơn tôi.”

Viên Ngọc Quý

Bạn có thể chia sẻ bài viết qua:

Bạn cũng có thể thích..

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *