Cảm nhận bài thơ: Nhớ – Nguyễn Bính

Nhớ

 

Ví chăng nhớ có như tơ nhỉ,
Em thử quay xem được mấy vòng?
Ví chăng nhớ có như vừng nhỉ,
Em thử lào xem được mấy thưng!

Anh ơi! Em nhớ, em không nói,
Nhớ cứ đầy lên, cứ rối lên.
Từ đấy về đây xa quá đỗi,
Đường đi bằng ngựa hay bằng thuyền?

Gieo thoi, gieo thoi, lại gieo thoi,
Nhớ nhớ, mong mong, mãi mãi rồi…
Thoi ạ! làm sao thoi lại cứ
Đi về, giăng mắc để trêu tôi?

Hôm qua chim khách đậu trên cành,
Kêu mãi làm em cứ tưởng anh.
Nội nhật hôm qua về tới bến,
Ai ngờ chim khách cũng không linh!

Ngưu Lang, Chức Nữ trên trời cao,
Họ nhớ mong nhau đến bực nào.
Cũng chẳng bằng em mong nhớ được,
Vì hai năm lẻ cách xa nhau!

Đêm đêm từng cặp vợ chồng son,
Gối lẫn tay nhau chuyện nỉ non.
Em gối đầu tay em tủi tủi…
Cuối thôn gà gáy lại đầu thôn.

Anh bốn mùa hoa, em một bề,
Anh muôn quán trọ, em thâm khuê.
May còn hơn được ai sương phụ,
Là nhớ người đi có thể về.


1936

*

Đo lường nỗi nhớ – và chẳng ai đong hết được lòng em

Trong thi ca Việt Nam, có lẽ không mấy ai viết về nỗi nhớ với tất cả sự chân thành, dịu dàng mà đau đáu như Nguyễn Bính. Và “Nhớ”, bài thơ ông viết năm 1936 khi tuổi còn rất trẻ, đã cho thấy một trái tim thôn nữ khôn nguôi khắc khoải trước xa cách, yêu mà không thể gần, chờ mà không biết đến bao giờ – như một dòng sông đầy thương nhớ chảy mãi không thôi giữa hai bờ đời cách biệt.

“Ví chăng nhớ có như tơ nhỉ,
Em thử quay xem được mấy vòng?”

Những câu thơ mở đầu mang nét duyên mộc mạc của người con gái nông thôn. Cô gái ấy không triết lý cao xa, chỉ đem nghề dệt lụa, quay tơ, đong vừng, lào thóc – những hình ảnh rất đời thường – để hỏi thử: Nếu nỗi nhớ có hình hài như tơ, như vừng, em thử đo, thử đong được mấy mà cho hết? Một cách ví giản dị mà thấm thía đến tận tim. Bởi tình cảm thật thì làm sao mà cân đong, đo đếm?

“Anh ơi! Em nhớ, em không nói,
Nhớ cứ đầy lên, cứ rối lên.”

Nhớ đến nghẹn lời. Nhớ đến rối lòng như mớ tơ chưa kịp guồng quay đã chùng xuống. Và sự xa cách ấy lại càng làm nên chiều sâu của nỗi niềm, khi khoảng cách không chỉ là địa lý – “Từ đấy về đây xa quá đỗi, / Đường đi bằng ngựa hay bằng thuyền?” – mà còn là cách biệt của phận người, của số kiếp.

“Gieo thoi, gieo thoi, lại gieo thoi,
Nhớ nhớ, mong mong, mãi mãi rồi…”

Thoi đưa vẫn đều tay, như nhịp thời gian trôi đi chẳng đợi chờ ai, và cũng như trái tim người con gái cứ từng hồi nhớ thương, mong ngóng. Trong cái lặng lẽ của tấm thân nhỏ bé, là cả một vũ trụ cảm xúc cuộn dâng. Thoi ơi, thoi cứ đi về để “giăng mắc trêu tôi” – hay chính là trêu đùa nỗi đơn chiếc của một người con gái nhớ người mà không dám cầm lòng.

“Hôm qua chim khách đậu trên cành,
Kêu mãi làm em cứ tưởng anh.”

Lại một niềm hy vọng mong manh: tiếng chim khách – điềm lành theo quan niệm dân gian – khiến em xao lòng tưởng như anh đã về. Nhưng tất cả chỉ là… “ai ngờ chim khách cũng không linh!”. Tưởng được ôm lại, hóa ra chỉ ôm hụt bóng người. Niềm tin tắt theo tiếng chim.

“Ngưu Lang, Chức Nữ trên trời cao,
Họ nhớ mong nhau đến bực nào.
Cũng chẳng bằng em mong nhớ được,
Vì hai năm lẻ cách xa nhau!”

Nguyễn Bính so sánh nỗi nhớ đời thực với chuyện cổ tích – nhưng trớ trêu thay, Ngưu Lang Chức Nữ dù cách biệt thiên hà, vẫn được một đêm gặp nhau. Còn em đây, nơi thôn quê nhỏ bé, hai năm xa nhau chưa biết ngày gặp lại. Không có Ô Thước bắc cầu, chỉ có từng đêm lẻ loi nghe gà gáy cuối đầu thôn…

“Đêm đêm từng cặp vợ chồng son,
Gối lẫn tay nhau chuyện nỉ non.
Em gối đầu tay em tủi tủi…”

Tình yêu càng mãnh liệt khi bị phủ bởi bóng tối của cô đơn. Không gì buốt bằng đêm lạnh một mình, không ai cạnh bên, và cái đau không đến từ thiếu ngủ, mà đến từ thiếu vòng tay – thiếu người thương đã xa.

“Anh bốn mùa hoa, em một bề,
Anh muôn quán trọ, em thâm khuê.
May còn hơn được ai sương phụ,
Là nhớ người đi có thể về.”

Câu kết như một tiếng thở dài cam chịu. Anh là người phiêu lãng, còn em cắm rễ ở quê nhà. Nhưng ngay trong sự đối lập đó, Nguyễn Bính vẫn để lại một ánh sáng yếu ớt nhưng ấm áp: “may còn hơn được ai sương phụ” – may là anh vẫn còn sống, vẫn còn đường về. Em sẽ chờ, dù phải chờ bao lâu.

“Nhớ” là tiếng lòng của người con gái quê – mà cũng là tiếng lòng của bao người đã từng yêu xa, từng ngóng đợi, từng gối đầu trên tay mình mà tưởng tay ai. Nguyễn Bính không chỉ kể chuyện một người yêu một người, mà là kể chuyện làm người – khi yêu thương trở thành một phần máu thịt, khi nỗi nhớ không còn tên, chỉ còn hình dáng âm thầm trong từng nhịp thoi đưa, trong tiếng gà gáy đầu thôn, trong từng đêm dài thức trắng.

Và có lẽ, thơ chỉ cần như thế: một nỗi nhớ nhỏ của một người nhỏ – nhưng khiến cả trời cao cũng thấy động lòng.

*

Nguyễn Bính (1918-1966) là một trong những nhà thơ nổi bật của phong trào Thơ mới Việt Nam. Ông được biết đến với phong cách mộc mạc, giản dị, đậm chất dân gian và mang hồn quê sâu sắc. Thơ Nguyễn Bính thường gắn với hình ảnh thôn quê, con người bình dị và những chuyện tình duyên đầy cảm xúc, thể hiện một tâm hồn tha thiết với truyền thống. Một số bài thơ tiêu biểu như Lỡ bước sang ngang, Tương tư, Chân quê… đã để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng bạn đọc nhiều thế hệ.

Viên Ngọc Quý

Bạn có thể chia sẻ bài viết qua:

Bạn cũng có thể thích..

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *