Cảm nhận bài thơ: Nhớ tay chân – Xuân Diệu

Nhớ tay chân

 

Tặng Thương Binh

Có những khi mưa dầm dài dặc như trời nhức nhối ở trên mây;
Có những đêm trăng lặng gieo trên tàu lá chuối;
Có những khi bên an dưỡng đường chiều vây hiu hắt như nhớ nhung chi;
Có những khi… Có những khi…
Những khi nào, nào ai đếm hết?

Những khi một mình hay khi thanh vắng,
Khi khắc lụa và khi mắt vợi,
Khi trời đi theo đám mây bay,
Khi mai đêm hay lúc chiều ngày,
Khi tiếng hát nằm trong trí nhớ
Lên giọng hát thầm như một cuộn tơ nức nở,
Người thương binh bỗng nhớ tay chân.

Nhớ nào hơn nhớ trong thân thể?
Nhớ nào hơn cái nhớ tay chân?
Chim thẳng dong còn lúc nhớ rừng,
Mây phiêu bạc lưng chừng nhớ núi,
Những nghệ sĩ nhớ con đường gió bụi,
Nhớ mặt trăng trời là những hoa đêm,
“Anh nhớ em, em hỡi! anh nhớ em”
Là cái nhớ của tình nhân muôn thở;
Nhưng nhớ đâu có nhớ
Như người thương binh bỗng nhớ tay chân.

Đêm nay lạnh lùng buông toả bâng khuâng,
Người thương binh trở mình, nghe rét nơi chân đã mất;
Chân đã mất, nhưng rét còn vẫn rét
Nơi lòng chân ma, nơi ngón chân ma.
Nơi mắt cá tàn, nơi đầu gối đã qua.
– Ôi cái chân, em ơi, em đã lìa thân thể
Đem nguyên tử trả cho vòng luân chuyển,
Anh để em rơi bón đất nước nhà;
Như một lá vàng em vội vàng xa;
Cớ làm sao đêm nay em lại về như cũ,
Nghe em đó, mà không còn em nữa,
Rét không em, ôi kỷ niệm bàn chân,
Rét giùm em, anh vẫn lạnh toàn thân.

Người thương binh kéo chăn như tưởng đắp
Phía chân vắng với cả lòng ủ ấp,
Người thương binh khe khẽ giọng ru ru,
Ru chân, ru mình, ru dịu mùa thu,
Ru tổ quốc, ru và trời đất nữa;
Ru những nỗi đau, ru màu khói lửa,
Ru người ta, để thấy được người ru…
– Nhớ tay chân là mấy nhớ tương tư…


9-1948

*

Nỗi Nhớ Đứt Đoạn – Từ Đôi Tay, Đôi Chân Của Người Lính

Trong những dòng thơ của Xuân Diệu, ta thường bắt gặp một hồn thơ cháy bỏng yêu thương, nhưng cũng đầy trăn trở với những vết thương của dân tộc. Nhớ tay chân là một bài thơ như thế, một bài thơ viết tặng những người thương binh – những con người đã để lại một phần thân thể trên chiến trường, nhưng lại mang theo cả một nỗi nhớ khôn nguôi về những gì đã mất.

Mở đầu bài thơ, tác giả khơi gợi một không gian trầm lặng và đầy ám ảnh:

“Có những khi mưa dầm dài dặc như trời nhức nhối ở trên mây;
Có những đêm trăng lặng gieo trên tàu lá chuối;
Có những khi bên an dưỡng đường chiều vây hiu hắt như nhớ nhung chi…”

Từng hình ảnh như vẽ nên một nỗi buồn thăm thẳm, một sự cô đơn len lỏi trong tâm hồn người lính khi đối diện với sự mất mát của chính mình. Đó không phải chỉ là nỗi nhớ về một trận đánh, một người đồng đội đã khuất, mà là nỗi nhớ chính thân thể mình – một phần máu thịt đã rời xa.

Nhớ tay chân – một nỗi nhớ đau đớn đến tột cùng. Nó không giống như nỗi nhớ của người lữ khách về quê hương, của nghệ sĩ về những con đường gió bụi, hay của đôi tình nhân nhớ nhau trong cách xa. Nó là nỗi nhớ cắm sâu vào chính da thịt, một sự thiếu hụt vĩnh viễn không thể bù đắp.

“Nhớ nào hơn nhớ trong thân thể?
Nhớ nào hơn cái nhớ tay chân?”

Đau đớn nhất là khi ngay cả những gì đã mất cũng không buông tha con người. Dù đôi chân đã lìa khỏi thân thể, nhưng cảm giác về nó vẫn còn nguyên vẹn:

“Người thương binh trở mình, nghe rét nơi chân đã mất;
Chân đã mất, nhưng rét còn vẫn rét
Nơi lòng chân ma, nơi ngón chân ma.”

Cái rét len vào da thịt, nhưng đau đớn hơn là cái rét của ký ức. Người thương binh ấy không chỉ đau vì vết thương cũ mà còn đau vì sự hiện diện vô hình của chính đôi chân mình, một sự hiện diện mà anh có thể cảm nhận nhưng không bao giờ chạm tới.

Giữa những xót xa ấy, Xuân Diệu không để bài thơ dừng lại trong tuyệt vọng. Hình ảnh người lính kéo chăn, khe khẽ ru mình, không chỉ là để xoa dịu nỗi đau, mà còn là một hành động thiêng liêng:

“Người thương binh khe khẽ giọng ru ru,
Ru chân, ru mình, ru dịu mùa thu,
Ru tổ quốc, ru và trời đất nữa…”

Từng câu thơ vang lên như một tiếng hát ru của sự chịu đựng, của lòng kiên cường và của tình yêu quê hương. Người thương binh ấy không chỉ ru mình, mà còn ru cả đất nước, ru để vỗ về những nỗi đau, ru để giữ vững niềm tin vào ngày mai.

Bài thơ kết lại bằng một câu thơ đầy ám ảnh:

“Nhớ tay chân là mấy nhớ tương tư…”

Nỗi nhớ ấy không còn chỉ là sự đau đớn về thể xác, mà đã hóa thành một mối tương tư, một sự gắn bó sâu sắc giữa con người với phần thân thể đã mất, giữa người lính với đất nước mà anh đã hy sinh vì nó.

Với Nhớ tay chân, Xuân Diệu không chỉ khắc họa một góc khuất của chiến tranh – những con người phải sống với những vết thương không bao giờ lành – mà còn gợi lên một thông điệp sâu sắc về sự kiên cường. Mất mát là điều không thể tránh khỏi trong cuộc chiến vì tự do, nhưng tinh thần và lòng yêu nước vẫn sẽ trường tồn. Bài thơ ấy không chỉ là tiếng lòng của một người thương binh, mà còn là tiếng lòng của cả một dân tộc – luôn nhớ, luôn đau, nhưng cũng luôn mạnh mẽ tiến về phía trước.

*

Xuân Diệu – “Ông hoàng thơ tình” của văn học Việt Nam

Xuân Diệu (1916–1985), tên khai sinh là Ngô Xuân Diệu, là một trong những nhà thơ xuất sắc nhất của nền văn học hiện đại Việt Nam. Với phong cách sáng tác độc đáo, giàu cảm xúc và khát vọng yêu đời mãnh liệt, ông đã để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng bao thế hệ độc giả.

Sinh ra tại Hà Tĩnh nhưng lớn lên ở Quy Nhơn, Bình Định, Xuân Diệu sớm bộc lộ niềm đam mê văn chương. Ông là gương mặt tiêu biểu của phong trào Thơ Mới, mang đến một luồng sinh khí mới cho thi ca Việt Nam. Những tác phẩm như Thơ thơ (1938) hay Gửi hương cho gió (1945) thể hiện rõ nét giọng điệu sôi nổi, táo bạo, chan chứa tình yêu và khát khao tận hưởng vẻ đẹp cuộc sống.

Sau năm 1945, Xuân Diệu chuyển hướng sáng tác, hòa mình vào dòng chảy cách mạng, ca ngợi quê hương, đất nước và con người lao động. Dù ở giai đoạn nào, thơ ông vẫn giữ nguyên vẹn sự say mê và rung động sâu sắc. Những tác phẩm như Riêng chung (1960) hay Hai đợt sóng (1967) tiếp tục khẳng định vị trí của ông trên thi đàn.

Không chỉ là nhà thơ, Xuân Diệu còn là nhà văn, nhà phê bình có ảnh hưởng lớn. Năm 1996, ông được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật, ghi nhận những đóng góp to lớn của mình.

Xuân Diệu vẫn mãi là biểu tượng của thơ tình Việt Nam, là tiếng nói tha thiết của một tâm hồn luôn khát khao yêu và sống trọn vẹn từng khoảnh khắc:

“Hãy tận hưởng ngày giờ đang thở,
Và yêu đời, hãy sống mạnh hơn tôi.”

Viên Ngọc Quý

Bạn có thể chia sẻ bài viết qua:

Bạn cũng có thể thích..

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *