Nhờ Trí Đức học xá
Quốc ngữ duyên kia lỡ hẹn hò!
Buồn duyên thêm não cảnh tiêu sơ?
Huệ lan hoa thoảng mùi hương cũ,
Đào trúc cành lay vẻ gió xưa.
Kỷ án vẳng nghe lời giảng đọc,
Núi rừng còn nhớ cuộc nộ đùa.
Tháng ngày mưa nắng bao thay đổi,
Chi xiết lòng ai nỗi thẫn thờ!
Chữ Trí Đức mưa nhoà nét mực,
Mùi huệ lan gió nhạt mùi hương;
Hồn phong nhã, cảm văn chương,
Hồ sơn mây nước thê lương sớm chiều.
Nhớ những nhớ ngày nào năm nọ,
Hạt quốc văn gieo thuở ban đầu;
Trải bao nắng hạ sương thu,
Mầm non sẽ nảy, cành tơ sẽ chồi.
Rồi đến buổi ra đài nở nhị,
Giữa thành Phương, hoa “Trí Đức” tươi;
“Đầu mùa” xuân có hoa mai,
Sớm đem hương sắc chào cười chủ nhân.
Buổi mới dẫu còn phần thưa thớt,
Nhưng đã nhiều cốt cách tinh thần.
Vườn hồng tỏ mặt Đông quân,
Bõ công vun tưới ân cần bấy lâu.
Bỗng bèo nước vẽ màu ly biệt.
Cảnh Hồ Đông vắng nét hoa mai;
Thôi đành tan hợp cuộc đời,
Thôi đành nước chảy hoa trôi ngậm ngùi.
Thôi đành hãy tài bồi lớp khác,
Hẳn cũng còn hương ngát màu tươi.
Công trình kể biết mấy mươi,
Nắng mưa chưa dễ ăn ngồi cho yên.
Dẫu ngày tháng bao phen thay đổi,
Vẫn sớm hôm mọi nỗi ân cần;
Hơi xuân đâu lại thấm nhuần,
Màu xuân đâu lại mười phân đậm đà.
Vườn Trí Đức “Bông hoa đua nở”,
Sắc hương cùng một lứa thanh tân;
Trước sau dù có đôi lần,
Mà trong khí vị tinh thần khác chi.
Đã đẹp chốn hồng khoe biếc mở,
Lại đẹp trong nhị nở đài tươi;
Oanh ca én hót vui cười,
Vườn trời xuân sắc, lòng người văn chương.
Lòng những nghĩ xuân quang vô tận,
Cảnh thần tiên còn hẹn nhiều ngày;
Tương lai còn lắm điều hay,
Cành “hoa quốc ngữ” còn tươi tốt nhiều.
Đang mong đợi bao nhiêu mộng cảnh,
Trận gió qua chợt tỉnh mơ màng;
Trước mành tơ liễu bay vàng,
Đầy thềm hoa rụng bẽ bàng xuân đi.
Kiếp hồng tử đến kỳ linh lạc,
Dãi màu xuân phấn lạt hương tàn;
Thuốc nào giữ được hồng nhan,
Phương nào chữa được hoa tàn lại tươi.
Gió tung cuốn tơi bời hoa rụng,
Ngùi trông theo cảm động muôn vàn;
Đuổi xuân nhặt cánh hoa tàn,
Tấm sầu xuân những bàn hoàn ngẩn ngơ!
Nào hay cảnh tiêu sơ vắng vẻ,
Còn chùm hoa lẻ tẻ cuối mùa;
Yêu hoa há có hững hờ,
Xuân chiều hoa muộn càng âu yếm nhiều.
Hoa nọ dẫu không yêu kiều lắm,
Lòng thơm kia riêng cảm với ai;
Dầu chăng sắc nước hương trời,
Mà hương sắc đủ vui người vô liêu.
Hương sắc ít nhưng nhiều ý vị,
Cùng Đông quân chung thuỷ có nhau;
Có nhau trong cảnh vui sầu,
Cảnh vui hoa thịnh, cảnh sầu hoa suy;
Có cùng nhau trăng khuya mây tối,
Có cùng nhau gió núi mưa ngàn;
Có nhau thu vãn xuân tàn,
Hơi huân ngày hạ, cơn hàn tháng đông.
Nay là cảnh thưa hồng rậm lục,
Rồi xuân không mấy lúc phôi pha;
Rồi đây tháng lại ngày qua,
Hương thừa còn chút “Bông hoa cuối mùa”.
Còn đâu nữa gió đưa mây đón,
Còn đâu là lá mởn hoa tươi;
Còn đâu sóng bãi trăng đồi,
Còn đâu khúc hát câu cười non sông.
Hội nghiên bút tao phùng đâu nữa,
Lệ văn chương giọt ứa cảm hoài;
Mịt mù trong cõi trần ai,
Cao sơn lưu thuỷ ai người tri âm.
Hoa lan mọc âm thầm hang tối,
Qua đường, ai kẻ hỏi mùi hương?
Liên thành giá ngọc ai thương?
Nắm xương thiên lý nghìn vàng ai mua?
Thôi đành chịu người thua cảnh ngộ,
Cảnh không may thực khó mà nên;
Hồn Đại Việt, giọng Hàn Thuyên,
Năm năm ba bận tình duyên lỡ làng!
1931
*
Nhớ Trí Đức Học Xá – Tiếc Thương Một Mùa Hoa Đã Xa
Trong những vần thơ nặng lòng của Đông Hồ, “Nhờ Trí Đức học xá” không chỉ là nỗi nhớ về một ngôi trường, mà còn là sự tiếc nuối cho một nền văn chương, một tinh thần học thuật đã từng nở rộ nhưng nay phai tàn. Bài thơ như một tiếng vọng của quá khứ, nơi mà niềm tin vào sự phát triển của quốc ngữ, của tinh thần hiếu học, đã từng rực rỡ như một vườn hoa trong buổi ban mai.
Một thời vang bóng – Khi Trí Đức là vườn xuân trí tuệ
Bài thơ mở đầu bằng sự hoài niệm về một thời kỳ rực rỡ, khi Trí Đức học xá là nơi gieo mầm cho quốc văn:
“Kỷ án vẳng nghe lời giảng đọc,
Núi rừng còn nhớ cuộc nộ đùa.”
Tiếng giảng bài, tiếng cười đùa của học trò vang vọng giữa núi rừng, gợi lên hình ảnh một môi trường sôi động, tràn đầy sinh khí. Đó là nơi mà những hạt giống tri thức được gieo, nơi mà những tâm hồn yêu văn chương được nuôi dưỡng. Đông Hồ khẳng định rằng, dù tháng năm có đổi thay, những ký ức ấy vẫn không thể phai mờ.
Nhưng rồi, như một quy luật khắc nghiệt của thời gian, sự huy hoàng ấy dần phôi pha:
“Chữ Trí Đức mưa nhoà nét mực,
Mùi huệ lan gió nhạt mùi hương.”
Hình ảnh “mưa nhoà nét mực” hay “mùi huệ lan gió nhạt” không chỉ tả sự tàn phai của một nơi chốn, mà còn gợi đến sự phôi pha của cả một tinh thần. Ngôi trường vẫn còn đó, nhưng hồn cốt của nó dường như đã thay đổi, như một vườn hoa không còn được vun trồng kỹ lưỡng.
Sự lụi tàn của một vườn hoa tri thức
Đông Hồ dùng hình tượng hoa để nói về sự suy tàn của Trí Đức học xá. Lúc đầu, ông tin rằng:
“Mầm non sẽ nảy, cành tơ sẽ chồi.
Rồi đến buổi ra đài nở nhị,
Giữa thành Phương, hoa “Trí Đức” tươi.”
Hình ảnh hoa nở giữa thành Phương tượng trưng cho sự nở rộ của tinh thần học thuật, của nền quốc văn đang trên đà phát triển. Nhưng rồi, thực tại phũ phàng khiến hy vọng ấy dần lụi tàn:
“Bỗng bèo nước vẽ màu ly biệt.
Cảnh Hồ Đông vắng nét hoa mai.”
Sự chia ly đến bất ngờ, như một cơn gió cuốn đi những cánh hoa đang độ rực rỡ nhất. Đông Hồ không chỉ tiếc nuối cho Trí Đức, mà còn tiếc cho cả một nền giáo dục chưa kịp lớn mạnh đã gặp phải thử thách.
Nhưng dù đau lòng, ông vẫn giữ niềm tin:
“Thôi đành hãy tài bồi lớp khác,
Hẳn cũng còn hương ngát màu tươi.”
Dù lớp người cũ đã ra đi, nhưng tinh thần Trí Đức vẫn có thể được vun đắp qua thế hệ sau. Một nền giáo dục chân chính có thể gặp sóng gió, nhưng nếu vẫn còn những người tâm huyết, thì hoa vẫn có thể nở, tri thức vẫn có thể lan tỏa.
Bông hoa cuối mùa – Niềm tin trong sự mất mát
Phần cuối bài thơ mang một nỗi buồn sâu lắng nhưng cũng đầy hy vọng. Dù mùa xuân đã qua, nhưng:
“Nào hay cảnh tiêu sơ vắng vẻ,
Còn chùm hoa lẻ tẻ cuối mùa.”
Hình ảnh “bông hoa cuối mùa” mang ý nghĩa biểu tượng sâu sắc. Đó là những con người vẫn giữ được tinh thần hiếu học, vẫn tiếp tục duy trì truyền thống văn chương, dù thế cuộc đổi thay. Đông Hồ không còn trông mong sự phục hồi hoàn toàn của Trí Đức, nhưng ông tin rằng những gì còn sót lại vẫn đáng trân trọng, vẫn mang trong mình giá trị tinh thần sâu sắc.
“Có nhau thu vãn xuân tàn,
Hơi huân ngày hạ, cơn hàn tháng đông.”
Dù là mùa nào, dù là cảnh suy hay thịnh, những người gắn bó với Trí Đức vẫn sẽ cùng nhau gìn giữ ngọn lửa tri thức.
Lời kết – Khi văn chương là tiếng lòng muôn thuở
Bài thơ khép lại bằng một tiếng thở dài:
“Hồn Đại Việt, giọng Hàn Thuyên,
Năm năm ba bận tình duyên lỡ làng!”
Không chỉ là nỗi tiếc nuối cho một ngôi trường, Đông Hồ còn đau đáu cho cả nền quốc văn, cho tinh thần học thuật mà ông luôn trân quý. “Năm năm ba bận tình duyên lỡ làng” – sự phát triển của quốc ngữ, của văn chương nước nhà cũng đầy trắc trở, đầy thử thách, giống như một cuộc tình chưa trọn vẹn.
Nhưng dù thế nào, bài thơ vẫn để lại một niềm tin âm thầm. Dù những mùa hoa có đi qua, dù những lớp người có đổi thay, nhưng giá trị chân chính của văn chương, của tri thức, vẫn sẽ luôn còn đó, như một bông hoa cuối mùa vẫn kiên cường nở giữa đất trời.
*
Đông Hồ – Nhà thơ và người bảo tồn văn hóa dân tộc
Đông Hồ (1906-1969), tên thật Lâm Tấn Phác, là một nhà thơ, nhà giáo, nhà nghiên cứu văn học có tầm ảnh hưởng lớn đối với nền văn học Việt Nam. Sinh ra tại Hà Tiên, vùng đất giàu truyền thống văn hóa, ông sớm bộc lộ niềm say mê đối với quốc văn và quốc ngữ, từ đó dành trọn đời để nghiên cứu, giảng dạy và sáng tác bằng tiếng Việt.
Là thành viên của nhóm “Hà Tiên tứ tuyệt”, Đông Hồ không chỉ sáng tác thơ mà còn viết văn, ký, khảo cứu, góp phần quan trọng trong việc gìn giữ và phát huy văn hóa dân tộc. Ông từng sáng lập Trí Đức học xá, xuất bản tuần báo Sống, điều hành nhà xuất bản Bốn Phương và tạp chí Nhân Loại, với mục tiêu cổ vũ tinh thần dân tộc, đề cao giá trị tiếng Việt.
Thơ và văn của ông nhẹ nhàng, sâu sắc, giàu tình cảm, đi từ thể loại truyền thống đến hiện đại. Những tác phẩm tiêu biểu có thể kể đến Thơ Đông Hồ, Linh Phượng, Cô gái xuân, Hà Tiên thập cảnh… Bên cạnh đó, ông cũng được biết đến là người tiên phong trong việc phát triển thư pháp chữ Quốc ngữ.
Cuộc đời và sự nghiệp của Đông Hồ là minh chứng cho một tấm lòng tha thiết với văn hóa Việt Nam. Ông mất năm 1969 ngay trên bục giảng khi đang giảng bài thơ Trưng Nữ Vương, để lại một di sản văn học đáng trân trọng.
Viên Ngọc Quý