Cảm nhận bài thơ: Nửa đêm – Nguyễn Bính

Nửa đêm

 

Cuộc họp huyện ba ngày chưa bế mạc,
Nửa đêm, trăng đã lên cao.
Anh chủ nhiệm không tài nào ngủ được,
“Phải về xem chuyện nước ra sao!”

Chụp mũ lá, khoác bành tô, xỏ dép,
Như xỏ hia bây dặm, anh đi.
Thoáng một cái đã về tới xã,
(Non mười cây số, phải gần chi!)

Anh đi khắp đồng cao, ruộng thấp,
Anh vẫn đi (làng xóm ngủ im lìm)
Vòng quanh xã như vòng quanh trái đất,
Nước cạn rồi, nhiều ruộng nẻ chân chim.

Anh vào xóm, đến ngay nhà tổ trưởng,
Qua ngõ tre thơm phức bụi hoa nhài.
Trên chõng, ngọn đèn xanh hạt đỗ,
Tổ trưởng ngồi cạp lại miệng gầu giai.

Anh chủ nhiệm nói ngay: “Đằng ấy ạ!
Cánh đồng sâu nước cạn tiệt rồi!
Mở chiến dịch, ngày mai, chống hạn,
Cả thôn ta đâu nhẽ chịu thua trời!

– Huyện đã gọi máy bơm cấp tốc,
Chỉ hai hôm là họ sẽ về đây.
Cả máy cả người đấu sức
Kéo nước lên, cứu lấy vụ chiêm này.”

Tổ trưởng riết cho căng nuộc lạt:
“- Ấy hồi chiều chúng tớ mới bàn xong.
Tối họp, xã viên đều nhất trí,
Dù bảy bậc gầu giai hay tám bậc gầu sòng.

Có người bảo: đợi cậu về cái đã,
Để xem huyện định thế nào.
Nhưng cứu lúa cũng cần như cứu hoả,
Chậm một ngày, nẻ hết thì sao!”

Anh chủ nhiệm cầm xem cây rựa mới,
Tiện tay chẻ hộ mấy thanh giang.
Buông gầu, tổ trưởng đi tìm điếu.
Quầng trăng khuya đã lặn xuống ven làng.

Anh trao đổi vài câu ngắn gọn,
Rồi đứng lên: “- Thôi tớ lại đi thôi!”
Cậu tổ trưởng đưa anh ra tận ngõ:
“- Cứ tưởng đâu họp huyện đã xong rồi.”

Qua cổng nhà, nghe mẹ ho húng hắng,
Chắc cụ lo ruộng nẻ, ngủ không yên.
Chó thấy chủ, chui rào, mừng rối rít,
Quấn theo người, sang mãi tận thôn bên.

Đôi hia bảy dặm lại phi hành,
Áo ướt sương mù, gió lạnh tanh.
Làm thẳng một hơi tới huyện,
Chợt nghe gà gáy tan canh.

Rồi sáng ngày ra, trong cuộc họp,
Anh đứng lên: “- Thưa hội nghị, thôn tôi
Việc chống hạn đã bắt đầu phát động,
Sáng hôm nay chiến dịch mở rồi!”

Mọi người tròn mắt nhìn ngơ ngác,
Tưởng anh đùa, hoặc tưởng chuyện chiêm bao.
Anh đứng lặng, nghe thôn nhà rộn rã,
Người đen sông, tiếng nước đổ ào ào…


Tháng 3-1962

*

Nửa đêm – Bài ca của một trái tim không ngủ vì dân

Giữa những dòng thơ của Nguyễn Bính – một nhà thơ được biết đến với vẻ đẹp lãng mạn, trữ tình, chúng ta vẫn bắt gặp những bài thơ thấm đẫm hơi thở của hiện thực, của con người mới, thời đại mới. “Nửa đêm” là một bài thơ như thế: không tráng lệ, không kêu vang, mà lặng lẽ viết về một con người âm thầm lo cho dân, cho lúa, cho sự sống – giữa lúc nhân dân đang phải giành từng giọt nước với trời hạn để giữ lấy mùa chiêm.

Bài thơ mở ra trong một khung cảnh rất đặc biệt – giữa cuộc họp huyện đang diễn ra, và trong một giờ khắc chẳng ai còn thức:

Cuộc họp huyện ba ngày chưa bế mạc,
Nửa đêm, trăng đã lên cao.
Anh chủ nhiệm không tài nào ngủ được,
“Phải về xem chuyện nước ra sao!”

Không phải anh về vì lệnh trên, càng không phải để được vinh danh. Anh chủ nhiệm không ngủ được – vì ruộng, vì lúa, vì cái lo của một người cán bộ “ăn với dân, ở với dân, lo cùng dân”. Câu thơ “Phải về xem chuyện nước ra sao” giản dị như một lời thốt, mà ẩn chứa cả một tinh thần trách nhiệm cháy bỏng.

Cuộc hành trình trong đêm bắt đầu, không ồn ào mà như cổ tích:

Chụp mũ lá, khoác bành tô, xỏ dép,
Như xỏ hia bảy dặm, anh đi.

Nguyễn Bính đã dùng một hình ảnh cổ tích để nói về một người thật – anh chủ nhiệm xã – bằng chất giọng mộc mạc, đầy thương yêu. “Như xỏ hia bảy dặm” – đó là đôi hia của niềm tin, của lòng dân, của sức mạnh vô hình từ một trái tim thức cùng nỗi lo mùa màng. Con đường mười cây số giữa đêm không dài vì tình thương làm chân anh nhẹ.

Và anh không về để ngủ, mà để đi – đi từng xóm, từng đồng:

Anh đi khắp đồng cao, ruộng thấp,
Anh vẫn đi (làng xóm ngủ im lìm)…

Một mình anh, giữa màn đêm, bước chân giữa những thửa ruộng đang nứt nẻ “như chân chim” vì hạn. Đó là hình ảnh đau xót của đất và cũng là nỗi đau của người gắn bó với đồng ruộng như da thịt.

Anh không “chỉ đạo” từ bàn giấy. Anh đi – nhìn – nghe – cảm – và hành động. Anh đến tận nhà tổ trưởng, trong lúc “ngọn đèn xanh hạt đỗ” còn sáng, và họ cùng nhau trao đổi, chia sẻ, bàn kế – không giấy tờ, không nghi thức, chỉ bằng tấm lòng và một giấc lo canh cánh.

Những câu thơ tiếp theo tái hiện không khí chân thực, gần gũi của một xã miền quê thời kháng chiến:

Tổ trưởng riết cho căng nuộc lạt:
“- Ấy hồi chiều chúng tớ mới bàn xong…
Nhưng cứu lúa cũng cần như cứu hoả,
Chậm một ngày, nẻ hết thì sao!”

Không khí thảo luận rôm rả, thực tế và chủ động. Tinh thần “cứu lúa cũng cần như cứu hỏa” là hình ảnh đặc tả rõ nhất ý chí của người dân – coi nắm lúa là sự sống, là máu thịt, và không đợi mệnh lệnh, họ đã sẵn sàng hành động. Anh chủ nhiệm chỉ là người đến nối nhịp, đồng lòng, và rồi lại đi tiếp.

Chuyến đi khép lại bằng một hình ảnh xúc động:

Chó thấy chủ, chui rào, mừng rối rít,
Quấn theo người, sang mãi tận thôn bên.

Đôi hia bảy dặm lại phi hành,
Áo ướt sương mù, gió lạnh tanh.

Anh rời làng trong làn sương khuya lạnh, vẫn với đôi chân không nghỉ. Câu thơ “áo ướt sương mù, gió lạnh tanh” gợi một sự khắc nghiệt, nhưng anh không than, không chậm lại.

Và sáng hôm sau, anh lặng lẽ báo cáo với hội nghị huyện:

“Việc chống hạn đã bắt đầu phát động,
Sáng hôm nay chiến dịch mở rồi!”

Câu nói khiến cả hội trường ngỡ ngàng – vì trong lúc người ta còn đang bàn, thì người anh ấy và dân thôn đã ra đồng. Đó là thông điệp rõ ràng nhất mà bài thơ muốn gửi gắm: hành động – lặng thầm nhưng quyết liệt, chân thực và vì dân.

Bài thơ khép lại bằng âm thanh “tiếng nước đổ ào ào” – âm thanh của sự sống, của niềm tin, của thắng lợi giữa lòng nhân dân.

Anh đứng lặng, nghe thôn nhà rộn rã,
Người đen sông, tiếng nước đổ ào ào…

Không cần vinh danh, không cần ai nhắc tên – anh chủ nhiệm hiện lên như biểu tượng của hàng vạn con người âm thầm xây dựng đất nước: không phải bằng lời nói, mà bằng từng đêm trắng, từng bước chân, từng hơi thở.

“Nửa đêm” không chỉ là một bài thơ về một người cán bộ xã. Đó là bài ca của niềm tin, của ý chí tập thể, của một tinh thần cách mạng không khẩu hiệu – mà đầy chân tình và trách nhiệm. Nguyễn Bính đã dùng thơ như một cuốn phim quay chậm, làm sống lại hình ảnh người cán bộ bình dị mà cao cả, để nhắc nhở hôm nay – hãy sống và làm như họ: lặng lẽ mà cháy hết mình.

Đó là cách mà đất nước này đã đi qua những năm tháng gian lao nhất – bằng đôi chân người, bằng trái tim thức giữa nửa đêm.

*

Nguyễn Bính (1918-1966) là một trong những nhà thơ nổi bật của phong trào Thơ mới Việt Nam. Ông được biết đến với phong cách mộc mạc, giản dị, đậm chất dân gian và mang hồn quê sâu sắc. Thơ Nguyễn Bính thường gắn với hình ảnh thôn quê, con người bình dị và những chuyện tình duyên đầy cảm xúc, thể hiện một tâm hồn tha thiết với truyền thống. Một số bài thơ tiêu biểu như Lỡ bước sang ngang, Tương tư, Chân quê… đã để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng bạn đọc nhiều thế hệ.

Viên Ngọc Quý

Bạn có thể chia sẻ bài viết qua:

Bạn cũng có thể thích..

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *