Rừng
Rừng một dải, cây rừng chen chóc,
Nóc nhà mường mấy nóc chơ vơ.
Ban mai rừng nhuộm màu mơ,
Chiều hôm rừng đỏ lắc lơ ráng chiều.
Gió lạnh thổi hiu hiu dìu dặt,
Nai lạc bầy ngơ ngác lắng tai…
Lăm lăm tay nắm dao quai,
Cô mường bỡ ngỡ nhìn người đường kinh.
*
“Giữa rừng – nơi con người gặp lại chính mình”
Trong thơ Nguyễn Bính, ta đã quen với những làng quê Bắc Bộ dịu dàng và chân chất, những cô thôn nữ thẹn thùng sau rặng râm bụt, những tiếng sáo chiều gọi về giấc mộng trăm năm. Nhưng rồi, như một khúc ngoặt đầy bất ngờ và sâu lắng, bài thơ “Rừng” đưa ta đến một miền khác – miền rừng núi hoang sơ, nơi con người không chỉ đối diện với thiên nhiên hùng vĩ mà còn chạm đến nỗi xa lạ của chính mình với thế giới.
Rừng một dải, cây rừng chen chóc,
Nóc nhà mường mấy nóc chơ vơ.
Chỉ hai câu mở đầu, Nguyễn Bính đã vẽ ra một không gian vừa hùng vĩ vừa cô liêu. Rừng “một dải” nối dài tưởng như vô tận, cây cối chen nhau phủ kín cả miền đất hoang sơ, như một thế giới nguyên thủy chưa được con người thuần hóa. Giữa rừng thẳm ấy, vài “nóc nhà mường” hiện lên “chơ vơ” – sự tồn tại lẻ loi, mong manh của con người giữa bao la thiên nhiên.
Ban mai rừng nhuộm màu mơ,
Chiều hôm rừng đỏ lắc lơ ráng chiều.
Nhịp sống rừng không hối hả, không ồn ã. Mỗi thời khắc của ngày được cảm nhận bằng ánh nhìn tinh tế và đầy xúc cảm. Buổi sớm, rừng như được nhuộm bằng màu mơ – một sắc vàng dịu, thơ mộng mà phảng phất nỗi mơ hồ. Buổi chiều, ráng đỏ nghiêng lắc lơ, vắt qua từng vòm lá, đem theo nỗi buồn bảng lảng như khói núi. Cảnh rừng trong thơ Nguyễn Bính không dữ dội mà trầm mặc, cổ tích, đầy linh hồn.
Gió lạnh thổi hiu hiu dìu dặt,
Nai lạc bầy ngơ ngác lắng tai…
Rừng không chỉ là khung cảnh, rừng trở thành một trạng thái tâm hồn. Gió hiu hiu, không buốt mà vẫn đủ khiến lòng người rùng mình. Một con nai lạc bầy, “ngơ ngác lắng tai” – không phải vì sợ hãi mà vì cô đơn. Hình ảnh ấy gợi nhắc đến chính con người: khi ta lạc giữa cuộc đời, lặng nghe mọi tín hiệu xung quanh để tìm lại chính mình, mà không chắc chắn sẽ gặp được ai.
Lăm lăm tay nắm dao quai,
Cô mường bỡ ngỡ nhìn người đường kinh.
Câu thơ cuối khẽ chạm đến một nốt lặng khác: giao điểm giữa hai thế giới – miền rừng và miền xuôi. Người “đường kinh” – kẻ lạ từ thành thị đến, và cô gái Mường – người bản địa, cả hai cùng “bỡ ngỡ” trước nhau. Không chỉ là sự khác biệt văn hóa, mà là cảm giác con người trở nên xa lạ giữa chính đồng loại, như tiếng vọng nhẹ mà sâu của một thế giới đang thay đổi.
Bài thơ “Rừng” không chỉ là một bức tranh phong cảnh. Đó là lời thở dài của tâm hồn lữ hành, là tiếng nói của một kẻ xa quê, bước chân vào nơi lạ, và bất ngờ nhận ra: chính nơi lặng lẽ ấy, giữa thiên nhiên hoang sơ và ánh nhìn e dè của người xa lạ, con người mới thật sự thấy mình bé nhỏ, thấy đời rộng lớn, và thấy lòng cần một mái ấm để quay về.
Nguyễn Bính không tả rừng – ông sống trong rừng qua từng nhịp thơ. Và nhờ thế, ta cũng không chỉ đọc rừng – ta lắng nghe rừng vọng vào lòng, như một bản nhạc buồn mà ai từng đơn độc đều hiểu.
*
Nguyễn Bính (1918-1966) là một trong những nhà thơ nổi bật của phong trào Thơ mới Việt Nam. Ông được biết đến với phong cách mộc mạc, giản dị, đậm chất dân gian và mang hồn quê sâu sắc. Thơ Nguyễn Bính thường gắn với hình ảnh thôn quê, con người bình dị và những chuyện tình duyên đầy cảm xúc, thể hiện một tâm hồn tha thiết với truyền thống. Một số bài thơ tiêu biểu như Lỡ bước sang ngang, Tương tư, Chân quê… đã để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng bạn đọc nhiều thế hệ.
Viên Ngọc Quý