Sài Gòn ơi đập tan đi ảo ảnh
Cho tôi xin trên hè phố đêm nay
Một ít gió mưa về
Đập tan giùm ảo ảnh
Ma vương chiều nay vẫn diễn trò dối gạt
Tung rãi giọng tình ca sầu đau từ muôn kiếp trước
Có giòng nam thanh nữ tú nói cười trôi trong phố phường
đèn đêm chói sáng
Căn phòng em sau buổi cơm chiều nay,
ấm cúng trong bản trầm ca lãng mạn
Ôi tắt giùm tôi chiếc máy thu thanh! ô nhục Sài gòn ơi,
đừng nhởn nhơ vui giữa lòng đau đất nước
Trong đêm đen
Những cuộc hành quân lặng lẽ
Và trong im lặng đêm đen, qua bàn chông, những gót chân bết bê bùn máu, những chiếc cáng thương binh những thân người lìa tay, lủng ngực không kịp chở về bệnh viện
Bệnh viện xa, rất xa
Nơi có ánh đèn đô thành sáng chói
Bát canh bông bí ngọt thơm giữa mâm cơm chiều nay
không còn hương vị trên lưỡi tôi đắng chát
Bên kia sông, bên kia sông
Bóng tối ngập tràn mọi nẻo
Tôi van xin ở đây tiếng ca và ánh đèn hãy tắt
Trong giây phút
Cho tôi được hoà mình trong đại thể thương đau
Xóm nhà lá hôm qua trong cuộc hành quân
Rực trời bốc cháy
Và bụi tre vàng bên sông bốc cháy
Đứng bên bờ thương đau, nhìn giòng sông ngầu đục
em bé mồ côi nặng lời nguyền rủa chiến tranh
Những mũi tên thực tại đã từ lâu xé toang màn bản ngã
Ào ào xâm nhập. Ai cho anh ngồi đây? ngồi đây là có tội
Tiếng ca và ánh đèn làm mọc những chiếc vẩy cá nặng nề
trong tim phổi
Bàn chông
Hầm sụp
Đoàn xe lửa giật mình
Tan hoang khu làng bom dội
Tầm vông nhọn – tiếng trực thăng đè trên ngực lép
Mây xám mùa trăng loạn, đã từ hôm nao xẩy cảnh
trẻ con đầu nát, thiếu phụ thây tan?
Đất sụp dưới chân anh, anh ngồi đó được sao?
ôi tiếng kêu thương! tiếng kêu thương hai mươi năm của vết thương sâu trên thân hình Việt Nam nhức nhối
Chủ nghĩa và nhân danh
Những sợi giây nghiệp báo ai đem về ràng buộc lấy
thân hình dân tộc?
Sàigòn ơi, ảo ảnh đập tan đi,
Khuya nay gió bên sông mát rợi sương khuya mời anh đứng dậy
Tiếng kêu gọi thiết tha
Những bàn tay các anh
Những bàn tay các em
Trở về dựng lại mảnh vườn xanh xưa đã từ lâu xác xơ tan nát
Bếp lửa tình thương chưa tắt
Bếp lửa tình thương không tắt
Đứng lên
Cho gió mưa gầm thét,
Cho nước sông cuồn cuộn hôm nay,
Trong trời giông bão,
Cuốn ra biển cả
Dấu tích hai mươi năm trường khổ nhục đau thương.
(Bài thơ nằm trong Tập thơ Chắp tay nguyện cầu cho bồ câu trắng hiện (NXB Lá Bối, 1965) gồm những bài thơ kêu gọi hoà bình cho Việt Nam)
*
“Sài Gòn ơi, đập tan đi ảo ảnh” – Tiếng kêu thương thức tỉnh giữa một thành phố đang lạc lối
Bài thơ “Sài Gòn ơi, đập tan đi ảo ảnh” của Thiền sư Thích Nhất Hạnh không đơn thuần là một thi phẩm. Nó là một tiếng chuông báo động, một lời kêu cứu xé lòng giữa một đất nước đang chìm trong máu lửa chiến tranh. Trong tập thơ Chắp tay nguyện cầu cho bồ câu trắng hiện, bài thơ này vang lên như một tuyên ngôn lương tri, một tiếng nói lặng lẽ mà mãnh liệt của một con người không thể ngoảnh mặt trước khổ đau của dân tộc.
Cho tôi xin trên hè phố đêm nay
Một ít gió mưa về
Đập tan giùm ảo ảnh…
Mở đầu bằng một lời thì thầm, người thơ van xin gió mưa như thể đang cầu mong thiên nhiên hãy làm điều mà lòng người không dám: phá vỡ cái vỏ hào nhoáng giả tạo của đô thị. Sài Gòn hiện lên với tất cả sự rực rỡ, tiện nghi, nhộn nhịp – nhưng bên dưới lớp son phấn đó là một thực tại rách nát mà “chiếc máy thu thanh” hay “giọng tình ca lãng mạn” đang cố tình che lấp. Thiền sư đau đớn hỏi: “Ôi tắt giùm tôi chiếc máy thu thanh! ô nhục Sài Gòn ơi, đừng nhởn nhơ vui giữa lòng đau đất nước”. Đó không phải là lời buộc tội, mà là một tiếng tha thiết đánh thức lương tri.
Trong đêm đen
Những cuộc hành quân lặng lẽ…
Hình ảnh thi ca chuyển sang bóng tối chiến tranh. Bùn máu, thương binh, thân thể rách nát, hầm sụp, bàn chông… tất cả dựng nên một bức tranh bi thương nơi “bệnh viện xa, rất xa” – xa như chính lòng từ ái và sự đồng cảm đã rời xa con người. Trong khi đó, ở phía bên kia dòng sông, người ta vẫn cười nói, vẫn ăn bữa cơm tối với bát canh bông bí “không còn hương vị” vì “trên lưỡi tôi đắng chát”. Chính cái tương phản ấy đã tố cáo sự vô cảm, sự phô trương phi lý giữa lòng đau dân tộc.
Tôi van xin ở đây tiếng ca và ánh đèn hãy tắt
Trong giây phút
Cho tôi được hoà mình trong đại thể thương đau
Bài thơ bừng cháy từ chính nỗi đau muốn được đồng hành. Thiền sư không muốn đứng ngoài chiến cuộc. Người muốn hòa vào, không phải để oán trách hay phán xét, mà để chia sẻ và chuyển hóa khổ đau bằng tỉnh thức. Câu thơ không đòi hỏi cách mạng bằng bạo lực, mà bằng sự trở về, bằng thức tỉnh trái tim.
Xóm nhà lá hôm qua trong cuộc hành quân
Rực trời bốc cháy…
Hình ảnh những mái lá cháy đỏ, những thiếu phụ nát thân, trẻ em đầu vỡ, sông ngầu đục… không phải để gây sốc, mà để lột trần sự thật mà quá nhiều người đang cố làm ngơ. Đây không phải là thơ mô tả, mà là thơ cảnh tỉnh. Thiền sư nêu lên một câu hỏi gay gắt: “Ai cho anh ngồi đây? ngồi đây là có tội”. Không ai vô can khi khổ đau vẫn tiếp diễn và ta vẫn an ổn với chính mình.
Chủ nghĩa và nhân danh
Những sợi giây nghiệp báo ai đem về ràng buộc lấy thân hình dân tộc?
Trong một trong những đoạn thơ sâu sắc nhất, Thích Nhất Hạnh trực diện chất vấn mọi loại chủ nghĩa đã “nhân danh” điều tốt đẹp để ràng buộc và tàn phá đất nước. Người không đứng về phe nào. Người đứng về phía con người, phía những em bé, những thân thể cháy rụi, những tiếng kêu thương hai mươi năm không ai trả lời.
Sài Gòn ơi, ảo ảnh đập tan đi…
Bếp lửa tình thương chưa tắt
Bếp lửa tình thương không tắt
Đứng lên…
Cuối cùng, bài thơ không dừng lại ở lời kết án, mà là một lời mời gọi đứng dậy. Gió sông mát rợi, sương khuya về, tiếng kêu gọi thiết tha – tất cả là để đánh thức niềm tin vào khả năng hồi sinh, vào bàn tay có thể dựng lại vườn xanh xưa. “Bếp lửa tình thương” ấy – một hình ảnh vừa giản dị, vừa linh thiêng – là biểu tượng cho tình người không tắt, cho khả năng chuyển hóa khổ đau bằng lòng từ và hành động.
“Sài Gòn ơi, đập tan đi ảo ảnh” không chỉ là tiếng kêu thương, mà còn là một lời sám hối tập thể, là một ánh sáng đạo lý soi vào chính trái tim người đọc. Qua bài thơ, Thiền sư Thích Nhất Hạnh không hề lên án ai. Người đau cho tất cả – cho kẻ cầm súng, cho người hưởng thụ, cho em bé mồ côi và cho những linh hồn tan nát. Nhưng trên hết, Người kêu gọi một cuộc trở về – trở về với tình thương, với sự tỉnh thức, với trách nhiệm của mỗi người trong vận mệnh chung của dân tộc.
*
Thiền sư Thích Nhất Hạnh – Vị sứ giả của hòa bình và chánh niệm
Thiền sư Thích Nhất Hạnh (1926–2022) là một trong những vị thiền sư lỗi lạc và có ảnh hưởng sâu rộng nhất của Phật giáo thế giới đương đại. Không chỉ là một nhà tu hành, ngài còn là nhà văn, nhà thơ, học giả, nhà hoạt động xã hội vì hòa bình và người tiên phong đưa chánh niệm (mindfulness) vào đời sống thường nhật một cách thiết thực, giản dị nhưng sâu sắc.
Sinh ra tại tỉnh Thừa Thiên Huế, Việt Nam, Thích Nhất Hạnh xuất gia từ năm 16 tuổi tại chùa Từ Hiếu. Sau quá trình tu học và nghiên cứu, ngài đã có nhiều đóng góp quan trọng cho Phật giáo hiện đại, đặc biệt là trong việc kết nối tinh thần đạo Phật với các vấn đề xã hội. Ngài là người sáng lập Dòng tu Tiếp Hiện, Làng Mai (Plum Village) ở Pháp – một trung tâm tu học nổi tiếng thu hút hàng nghìn người từ khắp nơi trên thế giới.
Thông qua hàng trăm tác phẩm viết bằng tiếng Việt, tiếng Anh và các ngôn ngữ khác, Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã truyền cảm hứng cho hàng triệu người về lối sống tỉnh thức, từ bi và không bạo lực. Những khái niệm như “hơi thở ý thức”, “thiền đi”, “an trú trong hiện tại” trở nên gần gũi với nhiều người nhờ vào cách giảng giải mộc mạc, giàu hình ảnh của ngài. Các tác phẩm tiêu biểu như Phép lạ của sự tỉnh thức, Đường xưa mây trắng, An lạc từng bước chân, Giận … là những cuốn sách được yêu mến và tìm đọc rộng rãi.
Trong suốt cuộc đời, ngài cũng là một nhà hoạt động tích cực cho hòa bình. Năm 1967, ngài được mục sư Martin Luther King Jr. đề cử Giải Nobel Hòa bình nhờ những nỗ lực vận động chấm dứt chiến tranh Việt Nam bằng con đường đối thoại và bất bạo động.
Ảnh hưởng và di sản của ngài không chỉ lan rộng trong cộng đồng Phật giáo mà còn được quốc tế ghi nhận sâu sắc. Năm 2011, khu tượng đài “Remember Them: Champions for Humanity” với diện tích khoảng 100m2 được đặt tại khu công viên Henry J. Kaiser Memorial, thành phố Oakland, tiểu bang California (Hoa Kỳ). Bức tượng điêu khắc chân dung 25 nhân vật nổi tiếng còn sống và đã qua đời, đã có cống hiến lớn lao vì quyền con người trên thế giới. Thiền sư Thích Nhất Hạnh là một trong số những nhân vật được chọn để thể hiện trên tượng đài này, với những đóng góp của ngài cho công cuộc xây dựng hòa bình của nhân loại.
Vào ngày 11 tháng 4 năm 2025, thành phố New York đã chính thức đồng đặt tên đoạn đường West 109th Street (từ Riverside Drive đến Broadway) là “Thích Nhất Hạnh Way” để vinh danh Thiền sư Thích Nhất Hạnh. Đây là nơi ngài từng sống và giảng dạy trong những năm 1960 khi theo học tại Union Theological Seminary và giảng dạy tại Đại học Columbia./.
Viên Ngọc Quý