Sơn Tinh, Thuỷ Tinh
I
Ngày xưa, khi rừng mây u ám
Sông núi còn vang um tiếng thần,
Con vua Hùng Vương thứ mười tám,
Mỵ Nương, xinh như tiên trên trần.
Tóc xanh viền má hây hây đỏ,
Miệng nàng hé thắm như san hô,
Tay ngà trắng nõn, hai chân nhỏ:
Mê nàng, bao nhiêu người làm thơ.
Hùng Vương thường nhìn con yêu quá,
Chắp tay ngẩng lên giời tạ ân;
Rồi cười bảo xứng ngôi phò mã,
Trừ có ai ngang vì thần nhân.
Hay đâu thần tiên đi lấy vợ!
Sơn Tinh, Thuỷ Tinh lòng tơ vương,
Không quản rừng cao, sông cách trở,
Cùng đến Phong Châu xin Mỵ Nương.
Sơn Tinh có một mắt ở trán,
Thuỷ Tinh râu ria quăn xanh rì.
Một thần phi bạch hổ trên cạn,
Một thần cưỡi lưng rồng uy nghi.
Hai thần bên cửa thành thi lễ,
Hùng Vương âu yếm nhìn con yêu.
Nhưng có một nàng mà hai rể,
Vua cho rằng thế cũng hơi nhiều!
Thuỷ Tinh khoe thần có phép lạ,
Dứt lời, tay hất chòm râu xanh,
Bắt quyết hò mây to nước cả,
Dậm chân rung khắp làng gần quanh.
Ào ào mưa đổ xuống như thác,
Cây xiêu, cầu gẫy, nước hò reo,
Lăn, cuốn, gầm, lay, tung sóng bạc,
Bò, lợn, và cột nhà trôi theo.
Mỵ Nương ôm Hùng Vương kinh hãi.
Sơn Tinh cười, xin nàng đừng lo,
Vung tay niệm chú. Núi từng dải,
Nhà lớn, đồi con lổm cổm bò
Chạy mưa. Vua tuỳ con kén chọn.
Mỵ Nương khép nép như cành hoa:
“Con đây phận đào tơ bé mọn,
Nhân duyên cúi để quyền mẹ cha!”
Vua nghĩ lâu hơn bàn việc nước,
Rồi bảo mai lửa hồng nhuốm sương,
Lễ vật thần nào mang đến trước,
Vui lòng vua gả nàng Mỵ Nương.
II
Bình minh má ửng đào phơn phớt,
Ngọc đỏ rung trên đầu lá xanh.
Ngọn liễu chim vàng ca thánh thót,
Ngự giá Hùng Vương lên mặt thành.
Mỵ Nương bên lầu son tựa cửa,
Rèm ngọc lơ thơ phủ áo hồng.
Cánh nhạn long lanh vờn ánh lửa,
Mê nàng, chim ngẩn lưng giời đông.
Rừng xanh thả mây đào man mác,
Sơn Tinh ngồi bạch hổ đi đầu
Mình phủ áo bào hồng ngọc dát,
Tay ghì cương hổ, tay cầm lau.
Theo sau năm chục con voi xám
Hục hặc, lưng cong phủ gấm điều,
Tải bạc, kim cương, vàng lấp loáng,
Sừng tê, ngà voi và sừng hươu.
Hùng Vương trên mặt thành liễu rủ,
Hớn hở thần trông, thoáng nụ cười.
Thần suốt đêm sao dài không ngủ,
Mày ngài, mắt phượng vẫn còn tươi.
Sơn Tinh đến lạy chào bên cửa,
Vua thân ngự đón nàng Mỵ Nương.
Lầu son nàng ngoái trông lần lữa,
Mi xanh lệ ngọc mờ hơi sương.
Quỳ lạy cha già lên kiệu bạc,
Thương người, thương cảnh xót lòng đau.
Nhìn quanh, khói toả buồn man mác,
Nàng kêu: “Phụ vương ôi! Phong Châu!”
Kiệu nhỏ đưa nàng đi thoăn thoắt,
Hùng Vương mơ, vịn tay bờ thành.
Trông bụi hồng tuôn xa, xa lắc,
Mắt nhoà lệ ngọc ngấn đầm quanh…
Thoảng gió vù vù như gió bể,
Thuỷ Tinh ngồi trên lưng rồng vàng.
Yên gấm tung dài bay đỏ choé,
Mình khoác bào xanh da giời quang.
Theo sau cua đỏ và tôm cá,
Chia đội năm mươi hòm ngọc trai,
Khập khiễng bò lê trên đất lạ,
Trước thành tấp tểnh đi hàng hai.
Hùng Vương mặt rồng chau ủ rũ,
Chân trời còn phảng bóng người yêu,
Thuỷ Tinh thúc rồng đau kêu rú,
Vừ uất vì thương, vừa bởi kiêu.
Co hết gân, nghiến răng, thần quát:
“Giết! Giết Sơn Tinh hả hờn ta!”
Tức thời nước sủi reo như thác,
Tôm cá quăng ngọc trai mà hoa.
III
Sơn Tinh đang kèm theo sau kiệu,
Áo bào phơ phất nụ cười bay.
(Vui nhỉ mê ai xinh, mới hiểu)
Thần trông kiệu nhỏ, hồn thêm say.
Choàng nghe sóng vỗ, reo như sấm,
Bạch hổ dừng chân, lùi, vểnh tai.
Mỵ Nương tung bức rèm đỏ thắm,
Sơn Tinh trông thấy càng dương oai.
Sóng cả gầm reo lăn như chớp,
Thuỷ Tinh cưỡi lưng rồng hung hăng.
Cá voi quác mồm to muốn đớp,
Cá mập quẫy đuôi cuồng nhe răng.
Càng cua lởm chởm giơ như mác;
Tôm kềnh chạy quắp đuôi xôn xao.
Sơn Tinh hiểu thần ghen, tức khắc
Niệm chú, đất nẩy vù lên cao.
Hoa tay thần vẫy hùm, voi, báo.
Đuôi quắp, nhe nanh, giơ vuốt đồng,
Đạp long đất núi, gầm xông xáo,
Máu vọt phì reo muôn ngấn hồng.
Mây đen hăm hở bay mù mịt,
Sấm ran, sét động nổ loè xanh.
Tôm cá xưa nay im thin thít,
Mở quác mồm to kêu thất thanh.
Mỵ Nương kinh hãi ngồi trong kiệu,
Bỗng chợt nàng kêu mắt lệ nhoà.
(Giọng kiêu hay buồn không ai hiểu,
Nhưng thật dễ thương): “Ô! Vì ta!”
Thuỷ Tinh năm năm dâng nước bể,
Đục núi hò reo đòi Mỵ Nương.
Trần gian đâu có người dai thế,
Cũng bởi thần yêu nên khác thường!
4-1933
*
Sơn Tinh, Thủy Tinh – Bi Kịch Của Quyền Năng Và Tình Yêu
Nguyễn Nhược Pháp, với giọng thơ mềm mại và tinh tế, đã thổi vào huyền thoại dân gian Sơn Tinh, Thủy Tinh một hơi thở mới, vừa bay bổng lãng mạn, vừa thấm đẫm nỗi niềm con người. Nếu như trong dân gian, câu chuyện chỉ đơn thuần là cuộc tranh giành Mỵ Nương giữa hai vị thần, thì qua ngòi bút của Nguyễn Nhược Pháp, nó trở thành một thiên tình sử đầy chất thơ, nhưng cũng là một bi kịch về tình yêu, sự kiêu hãnh và nỗi đau của những kẻ quyền năng.
Mỵ Nương – Người con gái đẹp như giấc mộng
Từ những dòng thơ đầu tiên, Mỵ Nương hiện lên như một vẻ đẹp siêu thực, nàng tựa như tiên giáng trần:
“Tóc xanh viền má hây hây đỏ,
Miệng nàng hé thắm như san hô,
Tay ngà trắng nõn, hai chân nhỏ:
Mê nàng, bao nhiêu người làm thơ.”
Nàng không chỉ đẹp mà còn là giấc mơ, là ước vọng của bao người, trong đó có hai bậc thần nhân Sơn Tinh và Thủy Tinh. Họ không chỉ khao khát Mỵ Nương vì sắc đẹp mà còn vì nàng là biểu tượng của quyền uy, của sự hoàn mỹ mà họ không thể cưỡng lại.
Sơn Tinh – Thủy Tinh: Cuộc đối đầu không hồi kết
Hai vị thần hiện lên với những nét đối lập mạnh mẽ: Sơn Tinh – vị thần của núi non, uy nghiêm, vững chãi, sức mạnh hiển hiện qua hình ảnh bạch hổ và phép dời non lấp biển. Thủy Tinh – vị thần của nước, mãnh liệt, dữ dội, có thể gọi mưa giông, cuốn trôi tất cả bằng những đợt sóng dữ.
Cuộc chiến giữa hai thần không chỉ là tranh giành tình yêu, mà còn là sự va chạm giữa hai thế lực thiên nhiên – giữa đất và nước, giữa sự bền vững và cơn cuồng nộ.
Khi Sơn Tinh mang sính lễ đến trước, Thủy Tinh đến sau, nhưng lòng tự tôn của thần nước không cho phép thần chịu thua. Nỗi đau vì mất Mỵ Nương biến thành lòng thù hận, để rồi năm này qua năm khác, Thủy Tinh vẫn không ngừng dâng nước đánh Sơn Tinh. Nguyễn Nhược Pháp đã diễn tả cảnh giao tranh một cách hùng tráng:
“Mây đen hăm hở bay mù mịt,
Sấm ran, sét động nổ loè xanh.
Tôm cá xưa nay im thin thít,
Mở quác mồm to kêu thất thanh.”
Hình ảnh này không chỉ gợi lên những cơn lũ dữ dội hàng năm, mà còn ẩn chứa một sự tiếc nuối, một nỗi đau không thể nguôi ngoai.
Mỵ Nương – Định mệnh của cuộc chiến
Dù không trực tiếp tham chiến, Mỵ Nương vẫn là trung tâm của bi kịch. Khi cuộc chiến bùng nổ, nàng chỉ biết kêu lên trong đau đớn:
“Mỵ Nương kinh hãi ngồi trong kiệu,
Bỗng chợt nàng kêu mắt lệ nhoà.
(Giọng kiêu hay buồn không ai hiểu,
Nhưng thật dễ thương): “Ô! Vì ta!””
Lời thốt lên của nàng vừa mang chút kiêu hãnh, vừa mang nỗi xót xa. Nàng là nguyên do của cuộc chiến, nhưng cũng là nạn nhân của chính định mệnh mình.
Tình yêu và sự dai dẳng của nỗi đau
Dù câu chuyện kết thúc với chiến thắng thuộc về Sơn Tinh, nhưng lòng hận thù của Thủy Tinh không bao giờ nguôi. Mỗi năm, thần vẫn dâng nước lên đánh Sơn Tinh, như một sự giận dữ kéo dài vô tận:
“Trần gian đâu có người dai thế,
Cũng bởi thần yêu nên khác thường!”
Câu kết của bài thơ không mang sắc thái trách móc hay oán hờn, mà lại như một lời cảm thông sâu sắc. Thủy Tinh không hẳn là kẻ thù, mà chỉ là một người yêu quá mãnh liệt, quá si tình, đến mức biến tình yêu thành sự hủy diệt.
Thông điệp của bài thơ – Khi tình yêu và quyền lực giao tranh
Nguyễn Nhược Pháp đã tạo nên một bản tình ca hùng tráng, nhưng cũng đầy bi kịch. Ở đó, tình yêu không còn là điều thuần khiết, mà bị chi phối bởi quyền lực, sự chiếm hữu và lòng kiêu hãnh.
- Sơn Tinh yêu Mỵ Nương, nhưng cũng là kẻ chiến thắng trong cuộc đấu quyền lực.
- Thủy Tinh yêu Mỵ Nương, nhưng tình yêu ấy lại trở thành oán hận, trở thành một nỗi đau kéo dài vô tận.
- Mỵ Nương, dù là nhân vật trung tâm, nhưng cũng chỉ là một con người nhỏ bé bị cuốn vào vòng xoáy định mệnh.
Bài thơ không chỉ kể lại một truyền thuyết dân gian, mà còn đặt ra câu hỏi muôn thuở về tình yêu: Liệu tình yêu có thể tồn tại khi nó bị ràng buộc bởi lòng tham, quyền lực và sự chiếm hữu? Và liệu có ai thật sự là người chiến thắng trong tình yêu, hay chỉ toàn là những kẻ mang trong mình vết thương không thể lành?
Bằng ngôn ngữ thơ giàu hình ảnh, nhịp điệu nhịp nhàng nhưng cũng đầy kịch tính, Nguyễn Nhược Pháp đã biến Sơn Tinh, Thủy Tinh thành một bài thơ không chỉ kể chuyện, mà còn khơi gợi những suy tư sâu sắc về bản chất của tình yêu và con người.
*
Nguyễn Nhược Pháp – Nhà thơ trữ tình tài hoa
Nguyễn Nhược Pháp (1914-1938) là một nhà thơ trữ tình của Việt Nam, được biết đến với phong cách thơ nhẹ nhàng, hóm hỉnh nhưng vẫn thấm đượm chất trữ tình và tinh thần dân tộc. Ông là con trai của học giả, nhà báo, dịch giả Nguyễn Văn Vĩnh – người có nhiều đóng góp quan trọng trong việc truyền bá chữ Quốc ngữ và văn hóa phương Tây vào Việt Nam.
Ngay từ nhỏ, Nguyễn Nhược Pháp đã bộc lộ năng khiếu văn chương. Ông theo học tại Trường Trung học Albert Sarraut, sau đó tiếp tục học tại Trường Cao đẳng Luật và Pháp chính. Bên cạnh việc học, ông còn tham gia viết báo và sáng tác thơ, truyện ngắn, kịch bản.
Năm 1935, tập thơ “Ngày xưa” của ông ra đời, mang đến một làn gió mới cho thi đàn Việt Nam. Các bài thơ như Chùa Hương, Tay Ngà, Sơn Tinh Thủy Tinh đã ghi dấu ấn sâu đậm trong lòng độc giả nhờ lối thơ giản dị, trong sáng, kết hợp giữa chất dân gian và hơi thở hiện đại. Ngoài thơ, ông còn viết kịch, tiêu biểu là vở Người học vẽ (1936).
Cuộc đời Nguyễn Nhược Pháp ngắn ngủi, ông qua đời vì bệnh lao hạch khi mới 24 tuổi. Dù vậy, thơ ông vẫn để lại dấu ấn đặc biệt trong nền văn học Việt Nam, được đánh giá là mang nét duyên dáng riêng biệt, hiền lành và thanh tao.
*