Sự sống chẳng bao giờ chán nản
Trong cuộc đấu tranh giữa ta với địch sống chết thua hơn,
Có lúc, có nơi đứa thắng lâm thời lại là cái chết,
Cái chết rên môi có đôi râu mép
Sắc lẻm như dao;
Cái chết thích đeo kính râm lấy điệu và trán cũng cao;
Cái chết ngọt ngào nói như Kinh thánh
Thường giỏi trá hình, cái chết lại chưng diện bảnh,
Cổ cồn ca vát, người ngợm thơm tho;
Phất cờ chạy hiệu, cái chết lau nhau nhậu nhẹt say no,
Các má, các chị miền Nam đánh quần lên đầu nó.
*
Nhưng giặc Mỹ cố giết cho nhiều, vẫn cứ là thằng rụt cổ
Rúc vào hang lỗ lại cố chui ra;
Ngậm bom vào miệng, cố thét cho to,
Vẫn không át nổi cánh cò bay trên ruộng lúa,
Tại sao giặc Mỹ ném những em bé miền Nam vào lửa?
Mổ một con người, chỉ để láy mảnh gan nhắm rượu?
– Trại phong Quỳnh Lập, trường học Thuỵ Dân,
Con đê Phú Thọ, làng xóm Vĩnh Quang,
Chúng ta bình tĩnh ở giữa hờn căm,
Lại gieo, lại trồng trên những hố bom san phẳng!
Đã là sự sống, thì chẳng bao giờ chán nản;
Những gian nhà văn Điển, dù cho bom phá nát tan,
Khi mẹ trở lại thăm nhà, mẹ vẫn cứ mang trái tim vĩ đại,
Dọn bếp hót tro, nhặt những chân ghế bàn còn lại,
Mẹ nhìn phân biệt bằng mắt yêu thương
Cái chum đang còn đựng nước, miếng gương có thể soi gương,
Không thể tiện tay vứt thanh gỗ làm thành mảnh củi.
Anh Trỗi sắp bị tử hình vẫn dặn chị Quyên:
“Em đi cho khéo!
Mấy bậc cao nơi nhà tắm ấy rất trơn”.
Còn một chút ánh mặt trời, mẹ vẫn cố ngồi xâu chỉ vá áo cho con
Bà để cơm con cháu đi học muộn về, vẫn ủ suất cơm cho nóng
Miếng bao tải rách rồi, vẫn cứ vun cho sự sống:
Sắp sửa băng qua cầu Cấm, đêm khuya bên mấy bụi cây xa
Mấy anh em nhà văn chúng tôi còn nghe tiếng Ac-mô-ni-ca
Một đồng chí tân binh nào đang chuyển khí trời biến thành âm nhạc
Đặng thổi đến giữa bụi đường một ánh hoa hương dào dạt.
Em tiễn anh ra tới bến đò, mưa bụi khó nhìn nhau nữa,
Anh khoát tay bảo em về đi, em vẫn cứ hai chân lần lữa,
Em đứng hoài đứng mãi, đợi đò ngang sang tới bên kia
Mối chỉ giữa đôi ta càng kéo ra xa – lại càng buộc chặt.
– Ôi! Có hai hạt nào như đôi con mắt
Khi khép mí, dài dài như hai quả trám,
Nhưng khi mí mở, bật hai mầm sống diệu kỳ,
Hai chồi xanh bật sống, sáng cả đêm khuya,
Hai ánh, hai tinh diệu vô cùng sự sống!
*
Trái tim chúng ta là một đá nam chân cực mạnh!
Trái tim đập giữa cuộc đời, như chiếu lên trời toả ánh!
Trái tim dũng mãnh, đập hộ cho cả thế gian,
Ở đây sáng ngời chính nghĩa, ở đây tình nghĩa Việt Nam!
Này là lúc sự sống bừng lên cất rất cao tiếng hát
Như tình yêu thắng sự chia ly càng thêm thắm thiết,
Mồ hôi ta đổ, ruộng ta mơn mởn lúa xanh;
Giọt máu ta rơi đường ta dính liền Nam Bắc.
Mổ, mổ nữa đi,
Hỡi cái mỏ son của chiếc chồi non nhọn hoắt
Rất mực măng tơ, tưởng yếu như sên, nhưng cường hơn sắt,
Bao nhiêu vỏ cây già khấc từ trong cũng bật tung ra,
Chúng ta yêu sự sống bền dai, viễn viễn, bao la!
Nhất định chúng ta gìn giữ nhóm nhen sự sống;
Vẫn cứ hoa nở chim kêu, cuộc đời lồng lộng,
Nhất định trời cao đất rộng còn vui nắng sớm mây trưa.
Chúng bay đã vào hũ nút, cũng đừng tủi gió sầu mưa!
Giặc Mỹ đã biết hay chưa?
– Chúng tao chính là sự sống!
Hưng Yên, 15-1
Hà Nội, 7-7-1967
*
Sự Sống – Ngọn Lửa Không Bao Giờ Tắt
Có những bài thơ không chỉ là thơ, mà còn là tiếng gọi từ tận cùng trái tim, là ngọn lửa bất diệt của ý chí con người. Sự sống chẳng bao giờ chán nản của Xuân Diệu là một bản hùng ca bi tráng về sự sống và niềm tin vào tương lai, một tiếng nói mạnh mẽ giữa những đau thương của chiến tranh.
Cái chết và sự sống – Cuộc chiến không cân sức nhưng không thể khuất phục
Ngay từ những câu đầu tiên, Xuân Diệu đã phác họa một bức tranh đầy đối lập giữa cái chết và sự sống:
“Cái chết thích đeo kính râm lấy điệu và trán cũng cao;
Cái chết ngọt ngào nói như Kinh thánh
Thường giỏi trá hình, cái chết lại chưng diện bảnh,
Cổ cồn ca vát, người ngợm thơm tho.”
Cái chết ở đây không chỉ là một quy luật tự nhiên mà còn là biểu tượng của kẻ thù – những kẻ gieo rắc chiến tranh, giết chóc, hủy hoại sự sống. Nhưng ngay cả khi cái chết đội lốt những thứ hào nhoáng, giọng nói giả dối hay sức mạnh tàn bạo, nó vẫn không thể khuất phục được con người Việt Nam.
Bởi lẽ, sự sống dù có bị dày xéo, dù có bị bom đạn tàn phá, vẫn luôn vươn lên mạnh mẽ như cây cỏ sau mưa, như những cánh cò vẫn bay trên đồng ruộng.
Sự sống – Một bản lĩnh kiên cường trước thử thách
Xuân Diệu không né tránh hiện thực chiến tranh đau thương. Ông kể về những tội ác tàn khốc của giặc Mỹ, nhưng ngay sau đó, hình ảnh con người Việt Nam vẫn hiên ngang:
“Chúng ta bình tĩnh ở giữa hờn căm,
Lại gieo, lại trồng trên những hố bom san phẳng!
Đã là sự sống, thì chẳng bao giờ chán nản.”
Sự sống ở đây không chỉ đơn thuần là tồn tại, mà là một ý chí kiên cường. Người mẹ trở về giữa đống đổ nát vẫn nhặt nhạnh những gì còn lại để dựng lại mái nhà, vẫn nâng niu từng chiếc chum, miếng gương. Người vợ của Anh Trỗi dù chồng hy sinh vẫn tiếp tục bước đi, mang trong mình tinh thần không khuất phục.
Đó là cách mà người Việt Nam gìn giữ sự sống – bằng yêu thương, bằng nghị lực, bằng niềm tin rằng cuộc đời vẫn tiếp diễn, và con người sẽ không bao giờ quỵ ngã trước những thử thách khắc nghiệt.
Sự sống – Ánh sáng của tình yêu và niềm tin bất diệt
Nhưng sự sống không chỉ tồn tại trong nỗi đau và sự kiên cường, mà còn trong tình yêu, trong những khoảnh khắc giản dị nhưng thiêng liêng nhất:
“Còn một chút ánh mặt trời, mẹ vẫn cố ngồi xâu chỉ vá áo cho con
Bà để cơm con cháu đi học muộn về, vẫn ủ suất cơm cho nóng.”
Đó là tình yêu của người mẹ, là sự chở che trong những ngày khốn khó. Đó là ánh sáng của niềm hy vọng, dù cho bom đạn có nổ tung, dù cho cảnh chia ly có nghẹn ngào, người ta vẫn sống vì nhau, vẫn giữ lấy hơi ấm của sự sống.
Và trên con đường chiến đấu ấy, có những phút giây thật đẹp:
“Mấy anh em nhà văn chúng tôi còn nghe tiếng Ac-mô-ni-ca
Một đồng chí tân binh nào đang chuyển khí trời biến thành âm nhạc.”
Chỉ một âm thanh nhỏ bé ấy cũng đủ để thắp sáng một khoảng trời. Đó chính là bản chất của sự sống – luôn biết cách cất lên tiếng hát, luôn biết cách tìm ra niềm vui giữa muôn trùng khó khăn.
Chúng ta chính là sự sống!
Bài thơ kết lại bằng một tuyên ngôn mạnh mẽ:
“Chúng tao chính là sự sống!”
Câu thơ dứt khoát, mang sức nặng của cả một dân tộc, của những con người đã đi qua đau thương nhưng chưa bao giờ cúi đầu. Xuân Diệu không chỉ ngợi ca sự sống, mà còn khẳng định một chân lý: sự sống chính là thứ trường tồn, bất diệt.
Bằng trái tim yêu thương và ý chí sắt đá, con người có thể vượt qua mọi mất mát, đau thương. Cây cỏ vẫn nảy mầm, hoa vẫn nở, trời cao đất rộng vẫn đón bình minh. Và con người – dù phải trải qua bao nhiêu thử thách – vẫn tiếp tục sống, yêu và chiến đấu.
Sự sống chẳng bao giờ chán nản, bởi vì nó chính là niềm tin, là ý chí, là ánh sáng không bao giờ tắt.
*
Xuân Diệu – “Ông hoàng thơ tình” của văn học Việt Nam
Xuân Diệu (1916–1985), tên khai sinh là Ngô Xuân Diệu, là một trong những nhà thơ xuất sắc nhất của nền văn học hiện đại Việt Nam. Với phong cách sáng tác độc đáo, giàu cảm xúc và khát vọng yêu đời mãnh liệt, ông đã để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng bao thế hệ độc giả.
Sinh ra tại Hà Tĩnh nhưng lớn lên ở Quy Nhơn, Bình Định, Xuân Diệu sớm bộc lộ niềm đam mê văn chương. Ông là gương mặt tiêu biểu của phong trào Thơ Mới, mang đến một luồng sinh khí mới cho thi ca Việt Nam. Những tác phẩm như Thơ thơ (1938) hay Gửi hương cho gió (1945) thể hiện rõ nét giọng điệu sôi nổi, táo bạo, chan chứa tình yêu và khát khao tận hưởng vẻ đẹp cuộc sống.
Sau năm 1945, Xuân Diệu chuyển hướng sáng tác, hòa mình vào dòng chảy cách mạng, ca ngợi quê hương, đất nước và con người lao động. Dù ở giai đoạn nào, thơ ông vẫn giữ nguyên vẹn sự say mê và rung động sâu sắc. Những tác phẩm như Riêng chung (1960) hay Hai đợt sóng (1967) tiếp tục khẳng định vị trí của ông trên thi đàn.
Không chỉ là nhà thơ, Xuân Diệu còn là nhà văn, nhà phê bình có ảnh hưởng lớn. Năm 1996, ông được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật, ghi nhận những đóng góp to lớn của mình.
Xuân Diệu vẫn mãi là biểu tượng của thơ tình Việt Nam, là tiếng nói tha thiết của một tâm hồn luôn khát khao yêu và sống trọn vẹn từng khoảnh khắc:
“Hãy tận hưởng ngày giờ đang thở,
Và yêu đời, hãy sống mạnh hơn tôi.”
Viên Ngọc Quý